Nghĩ vậy, không dám đánh bạo bắn hấp tấp, ông Bỉnh đành nén giận, lủi thủi vác súng trở về. Về đến nhà, ba ngày ba đêm, ông mất ăn mất ngủ, không phút nào ông không nghĩ kế trừ mối hại to cho dân hàng hạt được bình yên. Mãi đến ngày thứ tư, một buổi sáng sau khi nắm nghía hết sức kỹ càng, địa thế của trường đấu chiến, sau khi đứng trên bờ suối nhìn kỹ tấm cầu treo đến hơn mười lượt, ông Bỉnh mới vỗ trán một cách sung sướng và đắc chí: ông đã tìm ra được một kế tuyệt diệu, phi thường.
Vội về nhà, ông cho gọi con trai lớn của ông là Đèo Thắng Mãnh, một trang thiếu niên khôi ngô tuấn tú, lực lưỡng và đỏ xạm như đồng đen. Ông Bỉnh thì thầm vào tai con mấy câu; cậu cả Mãnh nghe xong thì phởn phơ ra đi, vừa đi vừa cười tủm tỉm. Ông Bỉnh lại gọi đứa con rốt của ông – ông vốn chỉ có hai con trai, không có con gái – là Đèo Lầm Phá, cũng to lớn lực lưỡng như anh, năm ấy mới hai mươi mốt tuổi. Ông dặn Phá vài lời quan trọng, thấy Phá cũng hớn hở ra đi. Xong đâu đấy, ông thay quần áo, mặc một y phục màu lam, bó chẽn lấy thân thể; ông lại vào lục dưới đáy hòm bục (tức là cái giường vừa dùng làm rương để đồ đạc) lấy ra ba con mã tấu ngắn, đem mài sáng quắc; rồi ông quấn một vòng khăn đầu rìu, thắt một chiếc dây lưng màu đỏ sặc sỡ, xỏ chân vào một đôi giầy Tầu tết bằng cỏ; ông lại lấy ra một chai nước gì không hiểu đổ vào bát, xoa hai ba lần vào bàn tay, cánh tay, cổ tay và xoa lên mặt. Sắm sửa cẩn thận xong xuôi ông Bỉnh rút trên liếp một cái tù và bằng sừng trâu, thổi lên một tiếng to, rồi buộc tù và bên cạnh sườn. Tức thì, ở nhà dưới vội chạy lên một người, ăn mặc một cách lạ lùng vô kể. Người ấy trông như một hình nhân bằng rơm hay bằng cỏ, như một thu71bu2 nhìn to lớn hơn người thường và cử động rất lanh lẹn. Người đó toàn thân mặc một thứ áo quần kỳ dị, làm bằng thừng cói, từng vòng trùn một xếp lên nhau … Ta cứ tưởng tượng thằng người “Michelin” (Hãng sản xuất lốp ô tô và xe đạp của Pháp) mặc áo làm bằng bánh ô tô ta sẽ trông rõ rệt hình ảnh của người bù nhìn kỳ dị đó, nếu ta đem thay những bánh cao su tròn bằng những vòng thừng hoặc chão. Người ấy chỉ để lộ ra ngoài có đầu, hai tay và hai chân. Cứ như lời thuật lại của Lầm Khẳng sau này, thì người đó trong có mặc một lượt quần áo bông chèn nữa, hóa nên trông to lớn như con bò mộng. Trên đầu, hắn ta bịt một vành khăn vải rất dầy, che kín cả tai cả cổ, chỉ để lòi ra bộ mặt đen sạm, nhưng hồng hào, cương quyết vô vùng. Chân hắn ta cũng đi một đôi hài cỏ như đôi hài của ông Bỉnh. Cũng như ông Bỉnh, hắn thắt ngang lưng một chiếc thắt lưng sặc sỡ; buộc vào chiếc dây lưng đó, mé bên phải, một cuộn mây rất dẻo và trông vẻ rất bền. Nếu ta không trông thấy hai con mắt rất tinh anh, rất sáng, và cái mồm rất có duyên, để lộ hàm răng trắng muốt, thì ta không thể đoán biết người vạm vỡ ăn mặc lạ kỳ đó là ai. Nhưng lúc nhìn kỹ, nhận thấy nét mặt rắn rỏi, nước da mun trơn bóng và vẻ thông minh, sắc sảo từ trong đồng tử chiếu ra, ta biết ngay người đó là Đèo Thắng Mãnh.
Tiếng tù và thổi vừa dứt, Mãnh ở dưới nhà nhô lên, cùng ông Bỉnh đi ra ngõ. Duy có Lầm Phá thì không trông thấy tăm hơi đâu cả. Hai cha con Thắng Mãnh cùng lên ngựa đi về mé Phố Cát. Lúc ấy độ hai giờ chiều. Gần đến chiến địa, tức là chỗ cọp hay xuống, đến một quãng đường quặt trên sườn núi, hai cah con thấy một con dê bị buộc mõm treo trên cành cây cao, một quả gấc sắp chín, cũng buộc lủng lẳng vào cành cây ấy, và trên thân cây, một cái búa sắt cắm sâu vào gỗ. Tức thì, cả hai cùng xuống ngựa, đem ngựa giấu trong một cái hang gần đó, buộc vào chỗ kín; rồi ông Bỉnh trèo lên cây bắt con dê xuống, mang nó sang phía bên kia cầu, buộc chân nó vào một cái cọc cắm sát mặt đất, làm hình như ó bị vướng chân ở đó, lại mở dây trói mõm nó ra, thả cho nó kêu “be be” inh ỏi. Công việc vừa xong, ông Bỉnh vội lùi vào trong bụi ngồi nấp. Thằng Mãnh theo cha, cũng nấp ở gần đó độ vài thước.
Đợi ngót nửa trống canh, vào khoảng giữa giờ Thân, một tiếng gầm inh ỏi, trong lanh lảnh như tiếng khánh làm tạo hóa phải giật mình kinh hãi. Những loài chim chóc, đương ríu rít kiếm ăn, rào rào vỗ cánh bay đi chỗ khác, những loài chồn, loài thỏ vội chui rúc vào lỗ, không dám lộ đầu ra ngoài. Con nào vô phúc chạy bị vấp, thì đành nằm chổng ngược bốn vó lên trời, kinh khủng đến cực điểm, không lê đi được bước nào nữa cứ đành nằm run lẩy bẩy mà liều với số mệnh.
Một mùi hôi thối nồng nàn, sặc sụa, xông lên mũi hai cha con họ Đèo, tựa hồ tất cả bầu không khí bao bọc khu rừng toàn bị mùi hổ làm cho nhơ nhớp. Một cái bóng lù lù từ phía Đông Nam đi lại, ở trong một bãi sậy nhô ra. Cái bóng ấy vươn mình mấy lượt, một lần cúi gầm mặt xuống đất, ngáp một cái dài. Rồi những tiếng “à – uôm” vang trời nổi theo những cái ngáp ấy. Hai cha con Thắng Mãnh nhận biết Thần hổ xám, con hổ đã làm cho cả huyện Thạch Thành kinh sợ hơn sợ Thánh, sợ trời. Con vật đã làm cho nhân dân huyện ấy không lúc nào làm ăn mà không nơm nớp lo ngại. Hai cha con lại hiểu rằng tục truyền không phải toàn những lời sai ngoa vô bằng cứ. Phàm trong loài cọp, không con nào, lúc ngáp, dám ngẩng mặt lên trời. Bởi lẽ mồm cọp rất hôi; tung hơi bẩn lên mặt Thượng đế là một sự tối vô lễ: những con mãnh thú trước kia vô ý làm như thế, đều bị Thiên lôi dùng lưỡi tầm sắt đánh cho tan nát hình hài. Cho nên ngày nay, những con ác thú ấy, – nhất là hổ – rất sợ sấm sét, và không khi nào dám ngạo mạn tuôn ám khí lên mây nữa.
Nhưng đó là một phương diện khác. Lúc hai cha con họ Đèo thấy hổ xám tiến lại, cả hai cùng nép mình yên lặng, thu hết can đảm và nghị lực, ngồi chờ. Hổ từ từ vừa vươn vai vừa đi lại phía Bắc, nghĩa là lại mé đầu cầu. Bên kia cầu, trước mặt hổ, là một rừng cây rậm rạp mọc ven sườn núi: chỗ ẩn thân của hai cha con nhà thiện xạ. Gần đến cầu, hổ đứng dựng lại, như bị một mãnh lực gì ngăn cản. Mãnh lực ấy là sự sung sướng bắt được mồi. Con sơn dương nhẩy cuống cuồng nhưng không thể làm sao giật đứt được sợi dây trói buộc chân vào cọc. Nhảy lồng mãi vẫn vô hiệu, tiểu sơn dương đành phủ phục chịu số mệnh trước mặt chúa sơn lâm, hai mắt như van lơn, mồm tuôn đầy bọt dãi, trông rất thương hại. Hổ đứng yên hồi la6i, nhìn ngang ngửa như e ngại có kẻ lừa dối mình, rồi chú ý trông thẳng vào miếng quà ngon quí. Miếng quà ấy, chịu không nổi mãnh lực thôi miên của đôi đồng tử sáng ngời điện tuyến, mềm nhũn ra như một cái xác không xương. Hổ bèn tiến lại gần giơ chân trước vả cho một cái, ngửi một lúc, rồi định tha mồi quay trở vào bụi, ngồi thong thả gặm từng tí một cho hả cơn thèm thịt nõn nà. Nhưng, vả chết mồi thì dễ, tha nó đi, lại hơi khó một chút.
Bởi lẽ con dê kia bị vướng dây buộc chắc chắn chân sau vào cọc đóng sâu xuống đất đến non ba bốn gang tay. Hổ đành phải cắn cah6n dê cho gẫy, bỏ chân vướng lại ngõ hầu ngoạm xác mang đi. Dương cặm cu5i làm nốt việc cuối cùng ấy để sẽ được hường giờ khoái lạc thì, bỗng đâu, một vật gì rất kỳ dị từ trong bụi nhảy xô ra, bước quá cầu, vút vào mặt hổ một miếng quái gì không rõ, tròn như quả bóng mà xanh xanh đỏ đỏ, hay hay. Hổ giật mình, nhả mồi lùi lại phía sau, đứng giương mắt thôi miên vật ấy. Vật ấy như không sợ đôi mắt long lanh của hổ, cứ sấn lại, nhặt lấy xác dê, hổ vừa điên tiết, vừa tức nỗi bị tranh mất mồi, nhẩy chồm lên, xông lại vồ con vật bất nhã ấy. Lạ quá nhẩy gần đến nó, thì con vật đó lại nhào đi, tránh né rất tài tình. Trông cái thân hình múp míp và tròn trùng trục như cối xay kia, ai bảo con vật quái dị lại nhanh đến thế! Nó cứ thoăn thoắt, nhảy đi, nhảy lại, làm cho hổ càng ngày càng nóng máu, điên cuồng. Hổ hết vồ lại đứng nhìn, hết nhìn lại vồ, nhưng không tài nào cướp lại được. Sang đến giờ Dậu thì hơi chán hơi mệt, bởi lẽ những cái vồ, những cái chồm nặng nề, cố sức của mình đều vô công hiệu. Sau cùng, đắn đo lừa miếng mãi, hổ mới nhảy bắt được con vật ăn cắp dê. Con vật đó tựa như bằng lòng để hổ vồ mình, nó cúi đầu chạy tuột vào duối bụng hổ, cho hổ ngồi đè lên nó gọn thon lỏn.
Con vật ấy là Đèo Thắng Mãnh, người mặc áo kết bằng chão đó.
Thắng Mãnh vừa lừa dịp chui vào ngồi chồm hỗm dưới vụng hồ, lại thấy nhẩy vút ra một người ăn mặc gọn gàng, thắt dây lưng đỏ chóe. Người ấy là ông Bỉnh. Cọp chưa có thì giờ cúi xuống cắn xé Mãnh thì ông bố Mãnh đã nhẩy vọt qua cầu, sang tới trước mặt nó ra đến ngoài, ông dùng ba con mã tấu sáng quắc, cứ vờn đi vờn lại trước mặt hổ, bắt hổ phải kinh ngạc, sợ hãi nhìn những khí giới sáng lóe ấy. Quả nhiên, hổ không dám cúi đầu xuống thật; muốn cúi xuống lại sợ trong khi vô ý, kẻ múa đao kia thừa cơ đâm một mũi mã tấu vào mặt mình. Vì thế, chúa sơn lâm cứ phải để mặt chăm chú nhìn ông Bỉnh giữ thế thủ, không dám khai thế công. Trong khi ấy, Mãnh, mặc áo nịt kỹ càng, không sợ gì răng nhọn và vuốt sắc nữa, cứ việc ngồi điềm nhiên thu hình dưới bụng hổ. Đáng lẽ, nhân khi hổ mải nhìn ông Bỉnh, Mãnh phải thừa cơ mở cuộn dây trong người ra buộc lấy hai chân sau loài ác thú. Nhưng Mãnh mặc áo quần nhiều quá đến nỗi người to như cối xay, ngồi trong lòng hổ không tài nào cử động được. Biết việc buộc chân làm không nỏi, Mãnh sẽ dịch một chút lên phía trước cố ý làm cho hổ thấy mình cựa. Hổ tuy thấy động nhưng cũng không dám cúi nhìn lại phải nhổm đít lên một tí, nhốt chặt Mãnh vào khoảng giữa bốn chân mình, không cho Mãnh trốn thoát. Ông Bỉnh hiểu ý, vừa múa dao, vừa lùi về mé cầu một bước, Mãnh lại làm ra bộ muốn trốn, tiến lên một vài tấc. Hổ lại phải xê lên một chút để giữ lấy mồi. Ông Bỉnh cũng lùi lại phía sau một bước nữa. Dần dà cứ thế mãi; cả ba, độ một giờ sau, cùng ở trên mặt cầu. Hổ đến ngồi chỗ vẫn thường ngồi mà không biết. Lúc hổ đã tới chỗ ấy, thì Mãnh chịu khó ngồi yên, không cựa nữa mà ông Bỉnh cũng không lùi nữa. Chỗ hổ ngồi là một lớp sàn bằng tre hoặc luồng, chắp lại như một cái bè dài, dùng làm cầu bắc ngang qua khe suối. Thế tất những quãng giữa hai cây tre chắp lại là một khe hổng dài làm cho ta đứng trên cầu, có thể trông suốt được xuống đến mặt suối. Những đường kẻ ấy, có chỗ bề rộng đến hơn một tấc ta. Chỗ Thần hổ ngồi, có một đường hở to như thế. Hai cha con Mãnh cố ý làm cho hổ ngồi đúng giữa đường hở ấy. Mãnh lại khôn khéo, cố lệt mãi lên gần hai chân trước của hổ, ép mình sát vào hai chân ấy, chỉ cốt để mé dưới bụng hổ thảnh thơi. Mãnh làm Thần hổ xám vẫn có nết rất xấu, là mỗi lần đến ngồi trên cầu tre, thì thường hay ngồi vào chỗ có kẽ hổng rồi thả dương vật vào cái khe hổng ấy, cọ đi cọ lại cho đỡ ngứa, tự lấy thế làm khoái lạc vô cùng. Đó là một thói thường của hổ, tỷ như thói gãi tai của loài chó, hoặc thói gãi bẹn của giống hầu. Biết được thóp ấy, ông Bỉnh cốt lừa hổ đến ngồi ở chỗ cũ, để bắt nó thế nào cũng phải chết sau khi cịu một phen cực khổ ê chề.
Ông Bỉnh thản nhiên dùng ba con mã tấu liệng le6n tung xuống, chập chờn vời múa trước mắt Chúa sơn lâm. Trong khi ấy con trai lớn của ông, Đèo Thắng Mãnh, ngồi thu hình nép vào hai chân trước của hổ. Không mất một phút nào vô ích, khi Mãnh đã biết rõ hổ ngồi đúng giữa kẽ hổng, hắn vội vàng tháo cuộn song trong người, buộc một đầu rõ chặt vào dây lưng mình rồi, đo đắn tử tế, lại buộc nốt đầu kia và một cây luồng lớn giữa sàn cầu. Hắn tính trước: nếu nghiêng mình nhảy xuống khe, tất sẽ ở lưng chừng khe, không sợ đập đầu vào đá. Từ mặt cầu xuống đến khe có hơn hai mươi thước ta (nghĩa là tám thước tây) mà khoảng song chỉ có độ già mười thước. Mãnh buộc cẩn thận đâu đấy xong xuôi cả, lại ngồi yên độ một khắc cỏn con. Rồi bỗng hắn nhét hai ngón tay vào mồm, huýt một tiếng còi lanh lảnh. Tiếng còi ấy vừa phát ra, một cảnh kinh hồn táng đởm bỗng theo tiếng còi, hiển hiện trên mặt cầu.
Thần hổ đương ngồi giương mắt, chăm chú thôi miên ông Bỉnh, nghe tiếng còi tự nhiên hoảng hốt, nhảy chồm lên phía trước, tưởng chừng muốn xông vào o6g Bỉnh xé tan ông ra muôn mảnh bằng những vuốt nhọn hoắt và những ranh nanh nhe ra một cách gớm ghê. Hổ bắn lên đằng trước mạnh như một quả núi con văng lại, nhanh như một mũi tên bay. Sức mạnh của sự văng mình ấy rất lớn, đà cũng rất khỏe, khiến cho những vật cản đường hổ, không vật nào không phải tan tành. Nếu ông Bỉnh vô phúc đụng phải động lực hăng hái ấy ông tất không tài gì tránh được nạn ngã vào sườn núi đến nỗi dập óc tan xương. Nhưng, tuy đã già, ông là một người rất lanh lẹn. Không những ông tránh khỏi sự hổ vồ trúng, ông lại còn đủ can đảm và dũng cảm, đứng cách chỉ có độ hơn mười bước, ngắm đúng mặt hổ phóng cả ba thanh mã tấu, xong đâu đấy mới chịu nép mình nằm rạp xuống, lộn năm sáu vòng cho xa tầm nahn vuốt của loài ác thú. Ba con dao ông lại bay đều răm rắp như ba mũi tiêu théo, ta chỉ thấy sáng loáng, loảng xoảng, trong khi nghe hổ gầm lên một tiếng đau đớn vang trời. Những sự này tuần tự xảy ra chỉ có trong nửa khắc cỏn con, lấy mắt nhìn không trông thấy rõ hết được. Chỉ vụt như luồng chớp sự vật đà thay cả.
Tiếng còi của Thắng Mãnh vừa thoát, hổ gầm lên dữ dội; nhảy vút lên cao, chụp vào đầu ông Bỉnh. Sáng loáng ba mũi dao. Ông Bi3nh ngã xuống đất lộn mấy vòng. Hổ bay đi, dao bay lại.
Loảng xoảng. Â â â … ô ô ôm … Máu trng mình hổ vọt ra, đổ ngầu, tia xuống đất. Ngoảnh đầu lại Thắng Mãnh đã ở lưng chừng khe thẳm, bám vào sợi song lủng la lủng lẳng, hai chân lòng thòng giữa trời, nhìn lên cao, ông Bỉnh đã ngồi chồm chỗm trên một cành cây chót vót từ lúc nào không rõ. Con hổ vồ hụt tức tối lắm, lại gầm lên một tiếng nữa. Nó quay lại nhìn về phía cầu, định chồm lại trả thù ngay cho hả cơn nóng tiết. Nhưng nó không thấy ai cả. Mình nó lúc bấy giờ đẫm máu, trông rất ghê sợ. Dưới bụng nó một vũng đỏ ngầu thay ha83nsa81c lông trắng; trên mặt nó vấy đầy những giọt máu tươi. Giữa con mắt bên trái loài ác thú, một con mã tấu vẫn còn cắm chặt vào xương vào thịt. Máu ròng ròng chảy xuống như những dòng huyết lệ. Mồm hổ cũng phun ra máu đỏ, ý chừng nó bị mấy mũi dao làm cho sứt lưỡi, rụng răng. Nhất là bụng nó trông rất đáng thương; dưới bụng, một tia máu phọt ra không ngớt. Đau đớn quá, tức giận quá, con vật thét lên những tiếng kinh thiên động địa, gầm lên, lồng lên, quay ngang nhảy ngửa đến chín mười vòng để tìm người hại nó, cắn xé cho kỳ tan xác. Nhưng nó không làm gì được. Nó đành đứng trên bờ suối giương con mắt còn sót lại nhìn ông Bỉnh trên cây và Thắng Mãnh giữa khe một cách oán hờn, dữ tợn; nó chiếu thẳng vào hai cha con nhà thiện xạ những tia sáng quắc, đầy ý tưởng căm tức, tưởng chừng nó nguyền rủa hai cha con nhà ấy, và thề có đất trời chứng giám, thế nào nó cũng quyết chí báo thù rất độc ác sâu xa.
Nhưng bị thương như thế, chửa chắc nó còn sống sót! Nó nhảy chồm lên hồi lâu cho hả giận; rồi, biết lúc này lực cùng thế kém, sau khi gầm lên một tiếng cuối cùng rất thêm thảm, đau đớn, nó đi thẳng tuột vào rừng.
Ông Bỉnh khi ấy chưa dám xuống vội; ông còn ngồi trên cây một lúc rõ lâu nữa, chờ cho con mãnh thú đi thật xa, trốn biệt tích, bấy giờ ông mới nhìn trước nhìn sau cẩn thận tụt từ trên cây xuống, lại giữa cầu kéo dây song đem Thắng Mãnh lên. Ông vừa đem được con trai lớn lên mặt cầu, thì một bàn tay đen thui thủi, tựa như làm bằng bùn, nhô lên cào chân ông. Điềm tĩnh như không, ông Bỉnh cúi xuống, lấy tay nắm chặt cổ tay bùn ấy, kéo lên cầu một con quái vật trông kỳ dị lạ lùng. Con quái vật ấy không phải ai xa lạ cả, nó tức là Lầm Phá, nhưng một Lầm Phá trát bùn từ đầu đến chân, lại cầm trong ta cả một con dao găm sáng loáng và rớm máu. Thì ra anh chàng con út ấy phải nằm phục ở dưới cầu, dùng dây buộc mình vào thân cầu, nằm dài theo chiều cầu và áp mặt vào phía dưới sàn. Anh ta phải tắm bùn cho hổ không ngửi thấy hơi người nữa, rồi cứ nằm ngửa sát mũi vào những cây luồng, hé mắt qua khe hổng để nhìn lên trên cầu. Đợi khi Thắng Mãnh nhử hổ lại giữa kẽ hổng và buộc xong đâu đấy phân minh. Lầm Phá mới dùng mũi dao găm đăm nhẹ vào bàn tay anh, ra hiệu. Khi Mãnh huýt còi cho hổ phải bàng hoàng kinh ngạc, thì Phá đưa lưỡi dao găm cho ngọt, dùng thân luồng làm thớt, cắt mất của ông Chúa sơn lâm cái quí vật rơi lỏng thỏng xuống khe cầu.
Thế là hổ đau quá, nhẩy chồm lên; ông Bỉnh chỉ việc phóng dao cho đúng rồi chạy trốn. Công việc hoàn thành đâu đấy, ba cha con vội vã ra về. cả ba cùng không dám chậm trễ, chạy tuột một mạch vào động lấy ngựa, rồi ra roi phi nước đại, không dám ngoái cổ lại nhìn. Vì lúc đó, một tiếng “â â – uô ôm” long trời làm vang động cả một khu rừng núi.
Về đến nhà, ba cha con cùng nhau vui vẻ bàn bạc, đinh ninh rằng loài ác thú kia, bị những vết tử thương như vậy, thì khó lòng sống được ba ngày. Rồi ông Bỉnh vui vẻ báo tin mừng cho quan huyện biết.