Thây xử nữ bèo mây đành chông lấp,
Hồn phu nhơn mái rượu luống dật dờ.
Người bán ngọc tỏ tình thành thiệt,
Xin bà đừng than tiếc uổng công:
“Một bộ châu là của mấy đồng,
Bà phải chịu cực lòng tìm tỏi!”
Nói vừa dứt lời rồi lại nói:
“Bấy giờ đêm tăm tối canh thâu,
Tớ xin về mai sáng trở vào,
Dầu còn mất không mà ngại”.
Trong lời nói có hơi khí khái,
Phu nhơn nghe dạ lại thầm khen!
Đôi mắt xanh phân biệt bèo sen,
Nên rõ đặng sang hèn khác bực;
Bà cũng muốn tỏ lòng ngay thật,
Bảo người đừng tính quất lo quanh,
Cầm ở ăn rồi nghĩ trong dinh,
Mà đợi lúc bình minh kiếm nữa.
Bẩm thượng quan:
Cơn trong tiệc chuyện trò sao nữa,
Cùng rứa răng răng rứa nào hay,
Phận tôi đòi đâu dám nghiêng tai,
Hòng thấu nỗi mưa mây đánh đổ.
Nghe tới đây, Hồ Quốc Thanh sụt sùi máu ghen lửa lòng hừng dậy, bèn trợn mắt, nghiến răng, cầm gươm đứng dậy mà than rằng:
– Thôi rồi! Trời đất ôi, vợ tôi đành đoạn dữ a!
Than rồi xây lại hỏi Đào Anh:
– Sao nữa, Đào Anh, hãy nói luôn đi cho ta nghe, cho mau.
Đào Anh:
– Bẩm thượng quan:
Xem càng bữa tình càng thổ lộ,
Dan díu nhau mấy độ sen tàn,
Cuộc vui say trong lúc canh tràng,
Điều hư thiệt hành tàn ai biết,
Thì cũng tưởng cho bà trực tiết,
Mới lầm tin người thiệt phụ nhân,
Mấy ai ngờ rắn nọ có chơn,
Mà thấu nỗi đào kia lộn hột,
Cùng nhau đã nặng lời thề thốt,
Quyết trăm năm tạc một chữ đồng.
Tớ lại có nghe bà nói:
“Kiến nầy không nên điệu vợ chồng,
Tái sanh nguyện đạo Tòng chẳng đổi”.
Hồ Quốc Thanh nghe nói vợ mình thề thốt với tình như thế, bèn tức mình cầm gươm chỉ ngay vô dinh mà thệ rằng:
– Ta dầu còn một tấc hơi ta cũng quyết chẳng dung loài gian phu dâm phụ!
Thề rồi cũng xây lại hối Đào Anh.
Đào Anh tiếp:
Thời cũng tưởng còn nhiều chăn gối,
Bỗng không nghe quân đội vội về;
Lúc ban trưa giấc ngủ đang mê,
Vụt trỗi dậy dầm dề giọt lệ,
Nói sao xiết nỗi riêng khóc kể,
Trách khun cùng trăng rẽ làm đôi;
Đua đòi đoạn lại ngất đòi hồi,
Tỉnh ra khóc, khóc rồi than thở.
Hồ Quốc Thanh:
– Sao nữa, nói cho mau đi Đào Anh? Nghe có ta về, hai đàng khóc lóc cùng nhau, rồi sao nữa? Thằng dã man ấy đi đâu? Hay là bà mi giấu nó đâu? Bây giờ nó ở đâu; chỉ cho ta biết đi cho mau; còn dần dà chi nữa?
Đào Anh:
– Dạ, dám bẩm thượng quan, tiện tì mô dám giấu thượng quan. Hai đàng khóc lóc với nhau một hồi rồi, tớ nghe lịnh bà nói: “Cơn gấp như lửa cháy mày, không dễ ngồi đây mà khóc”. Lịnh bà biểu người phải mau ra khỏi dinh, kiếm nơi đình trú, thì tớ lại nghe người ấy khóc và đáp rằng:
“Mình ôi! Bây giờ biết tìm đâu mà ở.
Xứ lạ lùng tứ cố một thân;
Nhớ có quen am tự Bảo Anh,
Phải đến đó ẩn mình chờ bạn,
Mình ôi, có lâu lắm mười ngày nửa tháng,
Sao sao mình cũng ráng thăm nhau;
Trước vui cơn hạn hán gặp rào,
Sau phỉ chí thầm ao trộm ước”.
Dứt lời nói người liển để bước,
Ra khỏi dinh tới trước phật đài,
Chùa Bảo Anh còn ở hôm nay,
Tên tuổi thật không ai rõ thấu.
Việt tình tự tớ đà tiết lậu,
Tiện tì đâu dám giấu khúc trung;
Dám xin nhờ lượng cả bao dung,
Phận hèn mọn kiết hung âu hãn.”
Hồ Quốc Thanh:
– Nói vậy thằng khốn ấy ngày nay còn nương náu nơi Bảo Anh tự nữa chi! Hèn chi phu nhơn chẳng là xin đi dâng hương đáp lễ! Ta nói thiệt ta mà còn sống ở thế gian nầy giờ nào, ta nguyện chẳng để cho loài gian phu dâm phụ đã làm nhục danh giá ta còn trông thấy nhau nữa đặng. Nay mi thưa rõ sự tình, giải hết khúc sông nguồn ngọn, ta thấu hiểu đâu trong đâu đục rồi, thì ta chẳng còn nghi ngờ chi mi nữa. Hẳn thật sự tệ tình nầy tại nơi mụ bán tơ mà ra; tại nơi ả gian phu dâm phụ mà có; chẳng tại nơi mi cùng đoàn thế nữ trong dinh chút nào! Thật mi vô tội; song mi thuật cho ta nghe rõ trước sau, thấu đáo kẽ răng chơn tóc rồi, ta mà để mi thì ta luống e lậu sự mà hư kế của ta đã đặt bày trong trí ta mà rửa hận. Ấy vậy muốn khỏi lầm câu: “Cơ bất mật học thiên phát” thì ta phải cam mọi đáng tội lỗi với trời đất và với mi mà giết mi; mi có vô tội mà phải thác về tay ta, ta xin mi chớ phiền sao ta có nhẫn tâm, dám làm chuyện bất nhơn bất nghĩa.
Dứt lời, Hồ Quốc Thanh chẳng để cho con Đào Anh năn nỉ một lời, trối trăn nửa tiếng, bèn hươi gươm chém Đào Anh một đao, rồi đá thây văng xuống ao, làm cho máu nhuộm nước hồ, thây chịu bèo sen chôn lấp.
Hồ Quốc Thanh đứng ngó giây phút, rồi xách gươm trở vào dinh, bỏ Đào Anh nằm giữa hồ sen, u ơ với cái cảnh quạnh êm đềm, nào ai hay biết. Ngoài trời đất với cỏ cây thì còn có mắt nào thấy sự tội tình nầy mà chứng cho Đào Anh; minh oan cho Đào Anh, nghĩ thật đau lòng không kể xiết!
Hồ Quốc Thanh vào dinh cất gươm rồi lên giường nằm, tay cầm điếu thuốc mà hút, ngửa mặt ngó lên, nằm nghĩ cho sự mình, toan mưu rửa hận. Thật là chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau, Hồ Quốc Thanh nằm chẳng biết liệu kế nào cao, mưu nào độc mà rửa cho sạch tình, trả thù oán nặng, nên lấy làm bối rối tấm lòng xốn xang gan tấc. Tính mưu nầy không tiện, toan tới kế jia; toan tính hết sức mà cũng chưa ra kế gì, Hồ lại càng tức mình, mà nằm ngồi không yên chỗ.
Hồ bèn thầm than:
“Hay vầy ta cũng chẳng giết con Đào Anh là đứa vô tội làm gì! Ngỡ giết nó mà giấu nhẹm sự mình, đặng có giả hình cười tỉnh nói say, tra kế độc rửa hờn cho sạch; có dè đâu giết nó rồi, mình lại tính không ra kế gì; như vầy, nghĩ người thác oan, dầu là lòng sắt đá đi nữa, há chẳng động niềm thương xót!”
Than rồi, Hồ cầm điếu thuốc đưa lên miệng mà hút, hút một hơi dài, phà khói ra mù mịt. Lúc bấy giờ, Hồ bị có tơ tưởng nỗi mình, ưu tư thù hận mà ngồi có hơi lãng lơ, nên khí vần khói cuộn cuộn bay lên; Hồ ngước mặt nhìn theo, nhìn như chiêm nghiệm sự tình, nên nhìn sững ngó trân, nhìn không nháy mắt. Vì lòng tư tưởng ấy, bỗng không Hồ thấy hình Đào Anh ôm đầu lăn lộn theo trong vầng khói; ví chẳng khác, phách nương mây bạc, hồn vấn vít bên chàng, khiến Hồ nghĩ đến người thác oan vùng sa nước mắt, Hồ liền đưa tay chỉ ngay vầng khói mà thầm nói rằng:
“Đào Anh, ta vẫn biết vì ta mà ngươi thác oan; song ngươi chớ phiền vấn vít theo ta mà đòi mạng; vì là lúc cùng đẳng đã đó. Hễ ta mà không giết ngươi, thì ngươi tiết lậu cơ mưu, ta trả thù nhà sao đặng. Vậy ta xin ngươi khá sanh thuận tử an; ta nói thiệt, ta giết lỡ ngươi rồi mà ta không làm gì nổi cái lũ gian dâm nầy, cho thỏa, thì ta nguyện chẳng sống ở trên cõi tạm nầy nữa làm gì cho nhục!”
Thầm nói vậy rồi, Hồ liền nghĩ ra một kế hay; Hồ mầng, cười, cũng ngó theo vầng khói mà cười, dường như ý muốn chia vui với hồn con Đào Anh còn đương phưởng phất. Tức thì Hồ đứng dậy bước ra, cất tiếng lên kêu quân hầu, dạy đòi Hồ Lăng vào trong dạy việc.
Hồ Lăng nầy là ai? – Có phải là anh em hay là bà con thân thích chi của Hồ Quốc Thanh chăng?
Không, Hồ Lăng nầy vẫn là một tên Thơ lại, theo hầu Hồ Quốc Thanh đã mấy năm trường, nhờ một lòng trung nghĩa không dời, mà đặng Hồ Quốc Thanh yêu dùng.
Nghe có lịnh đòi, Hồ Lăng lật đật chạy vào hầu nghe dạy việc. Hồ Quốc Thanh mới dắt Hồ Lăng vào phòng nói nhỏ cùng Hồ Lăng rằng:
– Người theo hầu ta đã nhiều năm, ta biết ngươi thật dạ thờ ta, tận tâm trung nghĩa, nên – ngươi cũng biết – ta xem ngươi như tay chơn, tin cậy ngươi như vi kiến. Nay ta có việc riêng, muốn thành cần phải có người lo lắng; nhưng hỡi, ngoài ngươi thì ta chẳng còn biết tin cậy ai hơn ngươi; vì vậy nên ta muốn sai ngươi đi, ngươi chớ nài khó nhọc.
Hồ Lăng:
– Bẩm thượng quan, từ thuở tớ mới vào hầu thượng quan, tớ đã từng xông tên đột pháo ra tử vào sanh, ngàn tứ muôn chông, không từ chốn thác; huống chi nay là lúc tọa hưởng thái bình, trong tĩnh an như bàn thạch, tớ tưởng thượng quan dầu có sai khiến tớ điều riêng tư gì khó dễ cách nào đi nữa cũng không qua nổi việc nằm sương gối vác, đội nguyệt mang sao, thế thì có chi gọi hiểm nguy, đến đỗi tớ nệ công khó nhọc. Tớ sẵn lòng chịu sai khiến luôn; xin thượng quan vật ngại.
Hồ Quốc Thanh:
– Ta vẫn biết rõ tấm lòng trung nghĩa của ngươi thuở nay. Mà việc sai ngươi đi đây chẳng có điều chi khó nhọc, song nó là mật sự, cần dặn dò bưng kín miệng bình; nên trước khi đi, ta phải giả ý giận dữ đánh đuổi ngươi ra; ngươi cũng phải làm bộ khóc lạy một đôi lần xin tha, xin không đặng sẽ đi ra khỏi. Ra khỏi dinh rồi ngươi cởi hết chinh y, bận quần áo theo người phường rẫy; rồi ngươi đi thẳng tới chùa Bảo Anh vào lạy thoàn sư mà xin nương náu. Vào đặng ở an rồi, ngươi dọ coi trong chúng tăng có tên nào là người Quế Châu, lại là tình nhân của phu nhơn, ngươi tỏ thật ngươi là người ở hầu dinh ta mới bị đuổi ra, giả thán oan mà kết giao cùng người ấy. Ngươi phải liệu thế mà cầm người ấy ở tại chùa Bảo Anh đó luôn với ngươi; cho đến khi nào có quân đem quan tài lịnh phu nhơn đến mà gởi nơi chùa và thấy người tình ấy canh thâu lén ra ôm lấy hòm mà khóc kể, thì ngươi, thừa lúc thanh vắng, giả làm gian nhân, xách búa cạy hòm lịnh phu nhơn mà trộm hết châu báu ngọc vàng để liệm. Ngươi gói lại một gói, rồi đem tới phòng kẻ tình nhân của lịnh phu nhơn mà để. Giá họa cho nó rồi, ngươi phải mau tuốt về dinh mà phi báo với ta, đặng ta tới dắt quan phủ doãn theo ta, lên đó, quả tang, bắt đứa gian tra khảo. tác thành như nguyện rồi, ngươi sẽ trở về dinh ta mà ở an như thường, ta chẳng phụ công tôi khó nhọc.
Hồ Lăng nghe qua, đứng ngẫm nghĩ một hồi rồi vâng chịu làm y kế nội. Bởi vậy, thình lình mà nghe có tiếng Hồ Quốc Thanh quở la, đánh đuổi Hồ Lăng ra cửa, thì nội trong dinh không ai rõ cớ chi, lấy làm lạ, ai nấy mới chạy lên, dòm coi cho biết.
Bây giờ Hồ Quốc Thanh lại giả ý và đuổi Hồ Lăng và nói:
– Mi đừng lạy lục chi cho uổng công; mi dám làm đến điều tác tệ, trong dinh ta, ngươi thừa lúc lịnh phu nhơn đi khỏi mà ngươi từ tình với con Đào Anh, chẳng kể phép nhà nghiêm cấm, thì thôi, con Đào Anh đã bị đuổi đi rồi, mi cũng phải đi theo, còn ức gì mà năn nỉ ỷ ôi chi nữa. Ta chẳng hề tha tội cho những kẻ sanh lòng tình tệ, làm gương xấu trong dinh ta.
Nghe vậy, ai nấy mới hay, tưởng thật Hồ Lăng lén cùng Đào Anh trăng gió. Hồ Lăng khóc lạy xin tha một hai lần không đặng, tún phải cam tâm từ giã ra đi; Hồ Lăng ra khỏi cửa rồi, Hồ Quốc Thanh lại kêu hết trong dinh mà dặn rằng:
– Hãy xem lấy gương Đào Anh với Hồ Lăng mà giữ mình cho vẹn vẻ!
Từ đây trong dinh, trên dưới, đều lặng lẽ, chẳng còn ai to nhỏ tiếng chi; Hồ Quốc Thanh đặt kế xong rồi, cũng trở vào phòng nằm nghỉ.
Nằm mà nghỉ sao an! Hồ Quốc Thanh nằm gác tay lên trán, chắt lưỡi thở ra, lộn lại lặn qua, tọa ngọa bất an cẩm trướng. Đã vậy lại còn thêm một nỗi khổ tâm hơn hết là, hễ ngó lên thì thấy con Đào Anh phất phơ trước mặt, ôm lấy cái đầu rơi đổ giọt máu hồng; ngó xuống lại thấy cái bãi nước miếng đờn ông, còn nổi bọt trắng tợ như bông trên gạch.
Nỗi than tiếc với nỗi cừu thù nó chen lấn nhau trong một tấc lòng, thì gan nào chẳng teo, ruột nào không thắt? Ai là người có gan, có ruột, có nhứt điểm lương tâm, ngộ phải cái cảnh trường hận này mà nằm ngồi cho an chỗ?
Lại hễ Hồ Quốc Thanh mà thấy cái đầu con Đào Anh với bãi nước miếng kia trước mắt chừng nào, thì cái nư giận càng lừng, máu ghen càng dậy; khiến cho Hồ Quốc Thanh ghe tương bao nhiêu, càng hận bao nhiêu, lòng lại mong tận sát loài dâm phụ gian phu bấy nhiêu, nhưng hỡi gánh nặng chữ tình, hai vai còn hoằn hoại, chưa dễ biết sao mà lấp cho cạn lòng bể ái với nguồn ân; cớ ấy nên ngoài nỗi than tiếc với nỗi hờn ghen kia, trong lòng Hồ Quốc Thanh hãy còn chứa thêm một nỗi oán thù, thương thương nhớ nhớ mà ra không định.
Làm sao mà nằm ngồi cho an! Thật Hồ Quốc Thanh ngồi không an, nằm cũng không an; nên chàng vùng chỗi dậy đi; chấp tay sau đít mà đi, đi tới đi lui, đi qua đi lại trong phòng, đặng mà giải khúc sầu tình, bớt cơn phiền não: dè đâu nỗi thương nỗi nhớ, nỗi oán, nỗi thù ở trong lòng nó chẳng chịu nằm an mà để cho nguôi; nó cứ chen lấn, giằng xé với nhau ở trong, làm cho tâm như dao cắt, ruột tợ tuần hườn khiến chàng đau đớn xốn xang, châu mày ủ mặt.
Dòm thấy chỗ vợ chồng ngồi ăn uống nói cười, chén thù chén tạc ngày xưa mà phát rầu; thấy chỗ vợ chồng nằm ngủ, gối chăn chông chạ, tay ấp má kề mà phát ghét. Ghét sao ghét cay ghét đắng, ghét lạ ghét lùng, ghét cho tới cái giường cái mừng, cái mền cái gối!
“Giận ru ra dạ thế thường,
Cười ru mới thiệt khun lường hiểm sâu”.
Hồ Quốc Thanh mãn có đeo lòng giận lẫy hờn ghen mà sanh dạ ghét cay ghét đắng, ghét đến đỗi dằn lòng không đặng, mà phải nhiếc phu nhơn là “gái bội phu”’ nhiếc đến thế mà chưa cam lòng, nư giận còn tràn hun mặt lửa dậy phừng phừng, gan dầu sôi sụt sụt.
Đang cơn giận duỗi như vậy, bỗng không, nghe tiếng chuông đồng hồ vội đổ mười hai; Hồ ngoảnh mặt ngó lên, nhìn trân trối rồi cũng đưa tay chỉ ngay mặt đồng hồ mà mắng là: “Đồ phản chủ!”.
Mắng rồi lại thầm nói: “May cho mi biết sống mà không biết nói, cho nên ta rộng lòng làm nhơn mà dung thứ cho mi; chớ chi mà mi biết nói năng đặng một tiếng gì ắt lưỡi gươm này chẳng tha mi, mi cũng phải hồn quy dị lộ. Giận vì ta đã chịu tổn mà chuộc mi về trong nhà đã bao lâu, ta lại còn phải chịu tổn công người lo săn sóc mi, để mi chẳng ích gì cho ta nhờ, khác hơn là nhựt dạ thường xuyên, canh giờ điểm khắc.
Ngày đêm không hề nhắm mắt, thì có chi trong nhà ta xảy ra mà mi chẳng nghe, chẳng thấy, chẳng biết đến chăng? Cớ sao trong khoảng vắng canh tràng, vợ ta sanh lòng lang, hòa gian với kẻ, mi thấy, mi nghe, mi lại đành yêm ẩn tệ tình, lúc ta về, mi không hề tỏ cho ta hiểu biết.
Dường ấy, có phải là mi phản ta chăng? Bấy giờ đây, đang lúc ta hận nỗi nhà ta mà kết oán thâm xương, cừu hờn căm dạ, không an tọa ngọa, khổ tâm dường nếm mật nằm gai, ai cầu mi mà mi vội đổ mười hai, làm cho ta hoài nhứt thinh oán nhứt thịnh, nhớ những lúc vợ ta ở nhà say đắm với ai, vui lắm tình dài đêm vắn.
Thầm trách vậy, rồi Hồ Quốc Thanh chắp tay sau đít chậm rãi trở vào, lơ láo mắt nhìn tứ cố. Trở vào phòng ngủ, trước tủ đứng, Hồ lại dừng bước đứng xem, nhìn trên ngó dưới giây phút rồi lại móc túi lấy xâu chìa khóa ra lựa chìa mà mở. Mở rồi, Hồ kéo hoác hai cánh tủ, thấy những quần những áo của vợ móc đầy từ trên tới dưới, bèn vói lấy cái áo bông thêu của vợ thường hay bận, cầm lật qua trở lại mà xăm soi trong ngoài cho mãn nhãn rồi đưa lên mũi mà hưởi hơi, Hồ bắt tới cái mùi chăn gối ấp yêu, hương nồng phấn đượm rồi phút chúc động niềm, quặn nhớ đến tình cầm sắc.
Ôi! Nỗi đau biết kể sao cho cùng! Bởi vậy Hồ mới đổ ngọc như chan! Hồ vừa khóc vừa than:
“Mình ôi! Nỡ nào phụ nghĩa tào khang! Nào khi dặn ngọc thề vàng bây giờ kim mã ngọc đàng với ai. Đành vong gia thất duyên hài!”
Dứt lời, Hồ ngó xuống thấy cái quả may, liền vói tay bưng lấy. Dở ra xem, thấy những khăn hỉ mũi của vợ, lúc ở nhà một mình, quạnh quẽ phòng không, nhớ chồng, ngồi mà rút từ cái khăn để dành cho chồng về dùng, không quản tới công khó nhọc.
Thấy vầy, Hồ lại càng động niềm xót thương hơn nữa. Hồ vùa khóc vừa xóc sổ quả may, cầm từ cái khăn lên coi, mới hay trong một chục khăn của nàng rút cho chồng, có phân nửa, thêu danh hiệu của chồng là hai chữ “Quốc Thanh”; còn có phân nửa sắp để ở dưới, lại thêu tên họ của “Tô Thường Hậu” là ai đâu lạ.
Hồ Quốc Thanh không hiểu cứ đứng cầm mấy cái khăn, coi đi coi lại mãi, mà nghĩ nghị không ra; nên coi mà giận căm gan, đứng chết điếng trong lòng, lửa tâm càng dập.
Lúc bấy giờ, Hồ mới than: “Hèn chi!”
Than rồi bao nhiêu lòng thương thán oán, nỗi nhớ hóa cừu: Hồ Quốc Thanh vội vàng dẹp quả may lại có nơi, rồi khóa tủ, ngồi mà nghĩ nghị xa gần, lo quanh tính quất. Hồ quyết chẳng dung tình!
Hồ mới rút gươm ngồi chờ, trong cho thấy mặt vợ đi chùa về tới dinh, để bước vào phòng, tức thì, Hồ ra tay tận sát.
Lòng Hồ nhứt định thế ấy, ai còn tưởng cho Hồ phu nhơn còn đặng sống nữa chăng? Hồ đã quyết rửa hờn, ai tưởng cho Hồ còn có chỗ thay lòng đổi dạ? Hồ phu nhơn chết rồi! Làm gì Hồ phu nhơn cũng lầm tay chồng mà thác rồi còn màng chi nữa!
Dè đâu khi Hồ phu nhơn về tới dinh, để bước xuống kiệu, đi thẳng vào phòng, thấy chồng bộ mặt giận dữ, tay cầm gươm hăm hở xốc ra, Hồ phu nhơn liền chíp miệng cười duyên, xáp lại ôm chồng mà hun, rồi mơn trớn hỏi:
– Tướng công sao giận dữ?
Hồ Quốc Thanh lúc mới xốc ra thấy vợ bước vào chíp miệng cười duyên, thì lòng hờn đã cởi bớt nên tay cầm gươm bủn rủn, cửa động chẳng muốn lên; đến chừng tới gần, bị vợ ôm hun con quỷ giận với lão thần hờn trốn đi đâu mất hết! Bỏ xác chàng lại đó trơ trơ như khúc cây; lặn lội giữa nguồn ân, nổi chìm nơi bể ái! Còn biết chi đến sự oán hờn!
Đã vậy Hồ Quốc Thanh lại còn đổi giận làm vui, quên thù nhớ nghĩa, ôm lấy vợ mà hun hít nựng nịu và nói rằng:
– Ác tệ cho con Đào Anh với thằng Hồ Lăng nó dám làm điều bưng mắt chim mà tư tình với nhau trong dinh; ta bắt đặng nên đã đuổi hết hai đứa nó rồi, mà lòng ta chưa nguôi giận; ta hãy còn muốn …
Hồ phu nhơn nghe qua, liền choàng tay ôm chồng mà hun mà ngảo ngớn cười nói cùng chồng rằng:
– Thôi đi mình! Đuổi nó đi ra khỏi dinh rồi thì thôi, chém giết nó làm chi tội nghiệp. Bề nào nó cũng người ăn người ở của mình mà nó lại làm phận liễu bồ nhược chất, mình há nỡ chẳng dung, mình sao cứ quen cái tánh thọc trời khuấy nước vậy hoài. Về dinh tư của mình, mà mình cũng tưởng như ra vào chốn ngàn tướng thiên binh, nên với đờn bà con gái mình cũng nghiêm quân lịnh!
Lời can giáng, tuy là tình cờ, mà là một lời rất thâm rất diệu, làm cho Hồ Quốc Thanh đau thấu ruột gan mà phải ăn năn việc mình toan tính. Bởi vậy, nghe chưa dứt lời, Hồ Quốc Thanh đà hạ gươm, đổi giận làm vui, tỏ lòng dan díu đứng trơ đôi mắt hữu tình mà nhìn lấy cái gương thu thủy treo bẹo bên mình, rồi ríu ríu đitheo vào phòng; ví chẳng khác voi cái dụ voi đực về chuồng xem thế dị như phản chưởng.
Ấy mới thật là: Anh hùng nan quá mỹ nhân quan đó!
Tác giả lại bàn:
“Trách nào thánh hiền xưa đặt bày câu cách ngôn nầy để lại răn đời rằng:
Võ vô thiết tả năng lưu khách,
Sắc bất ba đào dị nịch nhân.
Đời sau, ông Nguyễn Du đặt Kim Vân Kiều, mượn câu: Sắc bất ba đào ấy mà để lời rằng:
Lạ chi cái sắc khuynh thành,
Làm cho đổ quán xiêu đình như chơi.
Ngoài ra, người đời lại còn mượn những tích anh hùng hào kiệt vong vì sắc lụy vì tình, đổ nước nghiêng thành, cơ đồ táng bại mà để lời ca diêu rằng:
Nét hồng nhan không thuốc mà mê,
Nước kia muốn chảy, thành này muốn long.
Cho nên Hồ Quốc Thanh đang cơn nộ khí xung thiên, phải lúc lửa lòng bừng dậy, nghe vợ về tới, quyết xách gươm ra rửa sạch hận tình, trừ loại dâm phụ, mà khi gặp mặt vợ rồi, thấy cái miệng cười như hoa nở, sắc tợ phù dung mà bủn rủn tay chơn, lửa tâm vội tắt, làm cho anh ta quên thù nhớ nghĩa, đổi giận làm vui, ríu ríu theo vợ vào phòng mà cợt phấn cười son, vầy chăn gối cho phỉ niềm ân ái.
Lấy đấy mà suy, cái sắc mạnh thua gì sóng, cái tình sức thua gì gió; lại rằng cái tuồng mặt anh hùng như chiếc thuyền cây, thì sóng gió muốn nhận bao giờ lại không chìm không đắm.
Ấy mới rõ rằng:
Nét quốc sắc tợ con sóng lượn,
Mặt anh hùng như chiếc thuyền cây.
cho chớ. Không những nó muốn nhận chìm bao giờ cũng đặng thôi, ngoài ra còn nhiều khi nó làm cho người say đắm nó, phải tối mắt, điên đầu điếc tai, câm miệng mà phải lắm lúc trong vào đau ruột, nói ra nghẹn lời.
Bởi vậy Hồ Quốc Thanh khi ở nhà một mình mở tủ lục đồ, rồi lấy rổ may ra soạn, thấy vợ mình thêu tên “Tô Thường Hậu” trong nửa chục khăn, thì hiểu biết vợ mình tư tình cùng Tô Thường Hậu; nên giận lẫy hờn ghen, thù thâm kết oán quyết ngồi cầm gươm đợi vợ về mà giết cho tuyệt loài lang tâm cẩu hạnh tham lục tiếc hồng; dè đâu đến chừng giáp mặt đôi đường, Hồ Quốc Thanh bị vợ hun có mấy cái mà dội đổi ghét làm thương, lấy hờn làm nghĩa mà quên hết những nỗi oán thù, nên không đành cầm gươm sát hại người quốc sắc thiên hương thủy thần ngọc cốt ấy thôi; lại còn, Hồ Quốc Thanh lúc bể lặng sóng êm, rã cuộc mây mưa đánh đổ rồi, muốn hỏi vợ coi Tô Thường Hậu đó là ai, mà dám trộm lịnh rút khăn thêu chữ mà chẳng biết sao muốn hỏi hoài mà không hỏi đặng; làm như tuồng hở môi luống thạn thuồng nghẹn miệng nói không ra tiếng. Cứ ngồi trơ mắt đó nuốt nước miếng mà chịu, để mặc tình Hồ phu nhơn, uốn éo giọng kèn, thấp cao hơi quyển. Nghĩ thật cũng lạ dường!”
Cớ ấy nên, rồi ra, Hồ Quốc Thanh không làm chi động tới nàng đặng rửa hờn, nghĩ lại tức mình quá sức. Thật là tức ám ách cũng bắng lé cây; cho nên phút nào vắng mặt nàng thì anh ta dững mày, chắt lưỡi, trợn mắt, nghiến răng, gầm hét một mình như con hùm ngây; thệ quyết chẳng dung tánh mạng.
Mà khi trông thấy nàng vào, chíp miệng cười duyên, thì thôi chàng ngồi … làng nước ôi, ngẩn ngơ như ốc mượn hồn, ngất ngưỡng tợ hình cây tượng gỗ!
Rốt cuộc Hồ Quốc Thanh nghĩ biết cái sắc của nàng rất mạnh, khó nỗi mà báo oán trả thù; có họa là trở mặt xây lưng, thì mới mong hạ thủ; chí như đối diện với nàng tưởng chắc dầu cho sắt đá thấy mặt nàng cũng còn phải động dung thay, chẳng lựa là loài người, có đủ gan, đủ ruột, đủ thịt, đủ xương, lý nào thấy cái nét xuân sang mà chẳng động tình ái sắc.
Ấy vậy, muốn giết cho đặng nàng, trước là rửa hận tình, sau nữa trừ loài dâm phụ, thì phải đợi lúc nàng mê giấc, thì họa may. Vả lại từ đây cho đến giờ đi ngủ, thì cũng còn bao lâu; vậy thì từ đây cho đến khi dùng bữa cơm chiều, giữ đừng lộ sắc bất bình ngoài mặt; mà mình lại phải cười tỉnh nói say, giả tình dan díu cho nàng không nghi, mới đặng cho.
Tối lại khi dùng bữa xong và trước khi đi nghĩ, Hồ phu nhơn lại mời chồng cùng nhau ra vườn, trước là thưởng nguyệt xem huê, sau là mượn chén làm vui, ngư thủy, nhứt thàng, bỏ lúc sâm thương xa lời khuất mắt.
Hồ phu nhơn bèn cho thế nữ dọn tiệc tạo thuê viên, rồi thỉnh chồng cùng mình ra đó. Muốn cho đặng toại lòng chồng và tỏ tình khắng khít mà giấu nhẹm nỗi riêng của mình, Hồ phu nhơn bày biết bao là cuộc vui:
Lúc chén rượu lúc cuộc cờ,
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên.
Gẫm trong những cuộc truy hoan như vầy đây, phải chi vợ chồng Hồ như vợ chồng người ta, ý hiệp tâm đầu đẹp phận giai nhân tài tử, thì thôi, vui mầng biết lấy chi cân; bởi vợ chồng Hồ, ngoài xem dường đồng thinh đồng khí, mà trong xét không thật dạ thật lòng; cả hai đều giả hình mà đối đãi nhau, nên trong cái tình dan díu có hơi lợt lạt.
Thật, Hồ Quốc Thanh không vui. Bởi muốn giấu nhẹm sự mình để chờ cơ hội thi hành kế độc; chớ Hồ, không những không vui, mà lòng càng nhớ càng xốn xang, càng trông càng đau đớn; ví chẳng khác Hồ bị một mũi tên thuốc ở đâu bay tới ghim vào gan phổi vậy.
Biết vậy mà Hồ cũng nghĩ hết; nếu Hồ mà không bề ngoài lợt lạt nói cười cho qua, thì làm sao mà giấu nhẹm bề trong nham hiểm; cho nên, ép ăn thì hay ăn, ép uống thì uống, Hồ cứ việc:
Tẩy trần vui chén thong dong,
Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra.
Hồ cứ việc dặn lòng đừng quên, nhứt nguyện giết hết lũ dâm phụ gian phu rửa hận tình cho sạch.
Vợ chồng cùng nhau ngồi mượn chén chuyện trò cho đến khi trăng lên, ánh dọi sáng vườn, trăm hoa đua nở. Lúc bấy giờ cảnh quạnh yêm đềm, trước sau vắng tiếng; Hồ ngó quanh quẩn không thấy ai khác hơn là vợ chồng ngồi núp bóng trăng thanh, giả đàm canh vắng; mà Hồ xem dường tình yêu trước mắt, cừu hận sau lưng; Hồ sực nhớ đến nỗi mình, lòng lại dục thúc, chẳng cần phải đợi chờ cơn mê giấc. Trong cơn mong tính vậy, Hồ lại nghe văng vẳng bên tai, dường có tiếng ai biểu Hồ: “Gặp cơ hội này sao chưa ra tay, còn muốn đợi chờ tới cơ hội nào đâu nữa?”
Hồ nghe dứt lấy làm sự phải, vừa muốn chờn vờn đứng dậy lấy làm sự phải mà chưa kịp thì đã nghe có tiếng Hồ phu nhơn kêu, Hồ giựt mình ngó lại. Thấy Hồ phu nhơn đứng trước mặt mình mà ngó trân và cười nói:
– Hoa bữa nay nở rộ đầu vườn, mình với tôi rảo bước xem chơi, rõ là một cuộc trăng huê cảnh tình cả đẹp.
Hồ nghe qua, cười đáp với vợ mà chẳng mở lời, cứ ngồi trơ mắt nhìn mặt Hồ phu nhơn, trong lúc ánh trăng dọi sáng ngời, nhìn vẻ đẹp mà mê mẩn dạ! Rõ ràng trong như ngọc trắng như ngà, hoa nào không nhường, trăng nào không thẹn, đã vậy Hồ phu nhơn còn lại gần ôm chồng hun rồi ngã ngớn kéo chồng đứng dậy.
Hồ bèn phủi động tấm tình mà ngẩn ngẩn ngơ ngơ, quên phứt cái tiếng vẳng vẳng bên tai hồi nãy kia, song Hồ chẳng nguôi hờn, nên tiếng cười nói nghe cay nghiệt. Mà Hồ phu nhơn có thấu nổi đâu! Bị ỷ mình đặng chồng yêu, lại tưởng cái tình dan díu bề ngoài đậy kín nỗi riêng khép mở, nên Hồ phu nhơn không dè chồng sâu sắc nước đời.
Vợ chồng dắt nhau đi thưởng huê, đi từ đầu nầy tới cuối kia, vào nhiều chỗ quanh quanh lộn lộn. Tới một chỗ, Hồ sực nhớ lại tiếng văng vẳng bên tai biểu Hồ khi nãy kia, Hồ muốn ra tay bẻ họng. Hay đâu Hồ chưa kịp ra tay, đã thấy Hồ phu nhơn xây mặt lại kêu Hồ mà nói:
– Này mình, chỗ nầy đây tôi biểu trồng tinh những hoa tường vi, không có một thứ bông gì khác. Nay nó cũng đua nở chật nhành mùi thơm bát ngát; mình với tôi cũng nên ngừng lại đây giây phút xem chơi.
Đỏng đảnh rồi lại cười mỉm chi với Hồ, rồi cầm lấy tay Hồ mà dắt; làm cho Hồ ngẩn ngơ mà phải chìu lòng, Hồ vừa đi vừa lắc đầu mà thầm nghĩ: “Nét quốc sắc mạnh mẽ di thường, làm cho người dầu cừu hận cách nào, càng trông mặt càng ngẩn ngơ, không đành lòng sát hại. Muốn giết cho chết cái nét hồng nhan thì phải nhắm mắt xây lưng hay là làm cách nào cho đừng thấy tới cái mảnh gương trong thì họa may giết đặng.”
Thầm nghĩ vậy rồi bỏ qua, để cùng nàng thưởng hoa, tỏ tình hân hỉ. Hồ phu nhơn lấy làm vui mầng khôn cùng; bởi vậy nàng ngửi hoa nầy nhìn hoa kia, chỉ bông cao, rờ bông thấp.
Nàng còn lựa những hoa mới nở, hương đang nồng, sắc đang đượm, đem đưa tận mũi cho chồng ngửi mà đỏng đảnh với chồng. Giây phút, nàng chợt thấy trên chót một nhánh cao, có một chùm hoa mới nở còn đương tươi tốt, nàng kêu Hồ mà chỉ và xin bẻ giùm, Hồ nói:
– Nhánh ấy vượt cao, dễ gì mà bẻ! Mình biết tường vi có gai, nếu muốn bẻ cho đặng chùm hoa ấy cho mình, thì chẳng khỏi bị trầy tay xễ mặt. Vả lại gai nó quàu cũng đau thấu ruột gan vậy chớ chẳng phải chơi!
Nghe lời Hồ phu nhơn ngó mặt chồng mà mỉm cười xét kỹ, trong vẻ cười ấy có hơi kiêu ngạo. Hồ Quốc Thanh thấy vậy bất bình, lộ sắc chẳng vui, lấy lời gạn hỏi Hồ phu nhơn liền đáp:
– Tôi nghe mình đem sự thường tình lẽ hằng thiên hạ mà nói với tôi, tôi tức cười chớ có gì.
Hồ Quốc Thanh:
– Chi mà gọi là lẽ hằng thiên hạ?
Hồ phu nhơn:
– Thì lời mình nói với tôi là lẽ hằng thiên hạ chớ có chi khác hơn. Tôi vốn biết tường vi có gai, muốn bẻ đặng bông thế nào cũng bị xễ tay rách mặt; nhưn tôi nghĩ cho mình xót nghĩa tóc tơ, nặng tình vàng đá, mình vì tôi mà quên sự đau đớn nhỏ mọn ấy đi; nên tôi mới gởi xin mình bẻ giùm cho tôi; dè đâu, mình lại đem điều tôi sẵn biết để làm cớ nói với tôi mà chối từ, tôi há chẳng buồn cười cho chăng? Vả lại tường vi thường có gai nhọn, ai vươn mang lấy nó thì nó quàu rách thịt xẻ da; nhưng vì cái hoa tường vi, có hương thơm có sắc đượm; người mà mũi ngửi còn biết thơm, mắt xem còn biết đẹp, thì ai lại chẳng yêu chẳng chuộng nó mà tìm bẻ để chơi, chẳng kể những sự đau đớn xốn xang nhỏ mọn. Chí như hoa thúi địch, nếu dây nó mà có gai, thì ai lại chịu đau, tìm bẻ chi co uổng. Cớ ấy nên những hoa, nhụy thơm cánh đẹp, thì nhánh thường có gai, muốn đặng mũi ngửi hương nồng, mắt xem sắc đượm, thì chớ nệ xẻ tay rách thịt!.
Hồ Quốc Thanh nghe dứt thấm ngẫm gặc đầu rồi bỏ qua, không một lời nói lại: bèn mượn cớ buồn ngủ mà ép biểu Hồ phu nhơn trơ vào. Vào phòng Hồ Quốc Thanh nằm xét nỗi mình mà dạ luống bàng hoàng đêm tràng chẳng ngủ; năm canh thức đủ thắt thẻo ra vào nghĩ tức mình chẳng biết liệu sao, trả cho đặng oán nhà cho thỏa.
Đang cơn suy nghĩ, Hồ lại chạnh nhớ lời vợ mới nói ngoài vườn hoa khi nãy kia, lời nói tuy chẳng phải là ớt tiêu gì, mà thấu hiểu càng cay nghiệt lắm. Chẳng biết vợ mình có để ý nói hơi xa gần chi với mình chăng, chớ lời nó nói đó nghe ra dường nó buộc những tay nam nhi chi chí, phải rộng lượng hải hà, hễ muốn chơi hoa, phải chịu xẻ da rách thịt; cũng như nó buộc mình muốn đặng một người vợ quốc sắc thiên hương như nó mà kết tóc đến già, một nhà vinh hiển, thì phải chịu đau đớn tấm lòng, xốn xang gan tấc về những sự tệ tình của nó làm; dầu cho nó có ham vui lỡ dại, tham ván bán thuyền đi nữa, cũng phải cam ngậm đắng trơu cay, mựa chớ nếm mật nằm gai, cùng là than dài thở vắn. Sau đau đớn chút đỉnh kể là điều nhỏ mọn, chẳng nên nê cố làm gì.
Xét cạn lẽ, theo như đời ni, lời tỉ hứng của nó đó nghe ra cũng phải; song kể là chuyện nhỏ mọn mà bỏ qua là chuyện tội lỗi gì về việc trong gia đình kìa; chi như nó mà phụ nghĩa tóc tơ, thay lòng đổi dạ, dám làm đến điều nép bóng vườn dâu, tư tình với kè, thì há gọi cho là điều nhỏ mọn mà bỏ qua cho nó sao?
Không! Không!
Tội lỗi chi thì ta đành tha, chứ như tội thất tiết với chồng là tội lớn của đờn bà lẽ nào t tha đặng!
Không! Không!
Làm gì ta cũng chẳng dung tha. Làm gì ta cũng phải xử phạt mi. Mà ta lại chẳng lấy luật trọng mà xử mi cho có hạng lệ. Ta không lấy hình phạt chông mà phạt mi chi có chừng đổi. Ta quyết lấy luật riêng của ta là luật theo lương tâm của ta mà xử mi và lấy hình phạt riêng của ta mà trừng tội mi, làm gương treo để về sau cho đoàn phụ nữ lang tâm cẩu hạnh biết rằng tội gái bội phu chẳng kém gì tội trai phản quốc.
Nếu giáp mặt nhau ta giết mi không đặng, nghĩa là mi trông thấy ta, ta trông thấy mi, cặp con mắt hữu tình của ta nó vụt tắt ngọn lửa lòng của ta đi, nó lại còn làm cho ta xót tìm cảm nghĩa mà thương mà tiếc mi, không nhẫn tâm hạ thủ, thì ta nguyện nhắm mắt xay lưng mà vớt trái mi, không thì ta đợi lúc thâm canh mi ngủ mi, ta cầm gươm vào mà sát hại mi cho rồi một kiếp. Để làm gì thứ gái bội phu! Dung dưỡng chi loài ác phụ!
Nếu ta còn thuong tiếc cái nét hồng nhan của mi, nhắm mắt bỏ qua, để mà ấp yêu chăn gối với mi, thì làm gì ngày sau ta cũng chẳng thoát khỏi cái tay tối độc của mi giết ta một cách rất nên tàn nhẫn. Không lý rõ biết câu: Vật vi sản khẩu chông vi bịnh, nữ sắc hồng nhan tiện sát thân, mà ta còn đợi cho đến ngày ta bị tay mi hại ta mà ăn năn không kịp.
Ừ, ta đã nhứt nguyện giết mi mà rửa cái hận tình, thì không lý nào ta dung chế cho mi đặng nữa. Làm gì ta cũng phải giết mi. Từ đây tới sáng ta còn đủ giờ mà giết mi, không lý đêm năm canh mi thức đủ năm không một phút nào mi nhắm mắt. Hễ ta nghe mi ngáy thì ta mau đưa hồn mi về âm kiểng liền.”
Hồ Quốc Thanh thầm toan trộm tính vừa tới đây, bỗng thấy phu nhơn ở ngoài bước vô, trơ mắt ngó chồng, mặt mày ủ dột, rồi thẳng tới ôm chồng, mà nói hơi đỏng đảnh với chồng rằng:
– Mình ôi! Tôi buồn ngủ quá đi mình; mình đi nhỉ cho tôi nghỉ với.
Ác nghiệp cho Hồ Quốc Thanh, vắng mặt vợ thì gầm thì hét nghiến răng trợn mắt, giận duỗi quá chừng tính mưu này, toán kế kia, hăm bề kia, dọa nỗi nọ, mà hễ mắt thấy cái mặt phù dung, tay rờ nhằm ngọc cốt rồi, thì trong lòng đà khấp khởi mải mê mà quên hết oán hờn; Bởi vậy khi nghe vợ biểu “mình đi ngủ cho tôi ngủ với” tứ thì Hồ ríu ríu bước lại giường nằm lên vui vẻ. Đã vậy lại còn ôm mà hun hít nâng niu một cách nồng mặn phi thường.
Cùng nhau chuyện trọ không mấy phút, Hồ Quốc Thanh vì việc binh đao, xông tên đột pháo, sức đã mỏi mê, nên chẳng nằm thì chớ, hễ nằm xuống thì đôi mắt mở chẳng lên, bộ lim dim muốn ngủ; nhưng mà nằm một bên cái vóc ngọc mình ngà, mặt hoa mày liễu, dầu là lòng sắt đá đi nữa, chẳng biết chút tình gì mà bị lượng sóng tình nó dồi dập, còn phải xiêu mà bày chìu lả lơi thay; huống chi lòng người, cũng ruột cũng gan lại thêm mang mển khối tình triêu triệu, thì lý nào nằm gần một bên:
Hải đường mởn mởn nhành tơ,
Ngày xuân càng gió càng mưa càng nồng.
Mà chẳng động thửa tình sắc dục. Cớ ấy nên mê mệt mấy thì mê mệt, Hồ cũng ráng rút móc tai và lông nhím của của vợ mà chống đôi mí con mắt lên; đặng gượng thức mà:
Nguyệt hoa hoa nguyệt não nồng,
Đêm xuân ai dễ cầm lòng đặng chăng!
Còn Hồ phu nhơn, tuy chẳng phá lũy đạp thành vào sanh ra tử như chồng vậy chớ phải biết cho nàng đi chùa Bảo Anh mới về tới nhà trong lúc xế qua; lại thêm chồng đi chinh chiến mới về, nàng mãn có lo khi rượu sớm khi cờ trưa mà mỏi mê, nên chẳng đặt lưng xuống nệm thì chớ, hễ đặt lưng nằm xuống chưa đầy phút thì đã mơ mộng Huỳnh Lương giấc say hồ điệp; làm cho Hồ Quốc Thanh ngẩn ngơ, mới thấy đó, bỗng nghe ngáy đó!
Một mình buồn, Hồ Quốc Thanh nằm lăn qua lăn lại giây phút rồi day lại nhìn mặt Hồ phu nhơn; thật là mặt nhìn mặt càng thêm tươi, nên Hồ cứ ngồi chăm chỉ ngó mà lắc đầu cũng dường tiếc cho cái sắc, giá đáng trên mây trong nguyệt. Nằm mà nhìn ngó như vậy một hồi, ôm mấy đoạn tình trộm yêu thầm ái, bỗng không Hồ Quốc Thanh sực nhớ lại câu chuyện Hồ phu nhơn bạc tình, khiến mình nguyện trả hờn rửa hận, thì Hồ Quốc Thanh, máu ghen khun dằn, lửa tâm hừng dậy, vụt chỗi dậy ngồi mà nhìn ngó cái gương mặt nét mày của Hồ phu nhơn lại nữa. Thì cũng ngồi mà ngó sững nhìn trân, như nãy giờ đây, song chẳng phải nhìn mà thương ngó mà tiếc vậy nữa; duy nhìn mà giận, ngó mà hờn, khiến lòng Hồ, tiếc bao nhiêu hận cũng bấy nhiêu; bao nhiêu ái ân hờn đủ bấy nhiêu thù oán.
Lúc bấy giờ, Hồ nhớ lại cái tiếng vẳng vẳng bên tai xúi Hồ khi còn ở ngoài Huê viên, nhưng bởi ngó mặt nàng mà giết nàng không đành, nên Hồ có liệu kế, chờ lúc nàng giấc mê, sẽ ra tay tận sát.
Nhớ tới đây, Hồ thầm nói: “Thì bấy giờ cơ hội đã đến cho ta rửa hờn rồi, còn chi ngần ngại!” Thầm nói vậy rồi Hồ liền để bước xuống giường, đi rút lưỡi gươm cầm tay trở lại; Hồ đứng dựa đầu nằm, chơn dưới chơn trên, mặt đỏ phừng phừng như lửa.
Hồ dững mày trợn mắt, lườm ngó Hồ phu nhơn, ví như cọp nọ gặp mồi, mèo kia rình chuột. Hồ bèn hai tay cầm gươm, huơi lên quyết lòng chém xuống, dạ chẳng còn chút gì hoài ân tiếc nghĩa với cái mảnh đào yêu đang nằm nghiêng kia, xây mặt vô vách, còn mê giấc mộng, không hay.
Thôi rồi còn chi là Hồ phu nhơn! Thảm thay cho chút phận mong manh, tấm thân nhược chất, cái chết đã kề với lưỡi gươm trong tay người tình chông mà không dè, cứ việc nằm yên, giấc mộng những còn mơ tình tưởng nghĩa.
May đâu, lúc Hồ Quốc Thanh vừa dợm xuống tay, Hồ phu nhơn lại cựa mình day trở qua, mắt thì nhắm tay lại rờ, còn miệng thì nói:
– Mình ôi! Mình đâu? Chừng nầy sao mình còn làm gì, chưa ngủ?
Hồ Quốc Thanh thấy mặt vợ lòng đà bất nhẫn, phủi động tâm tình, lại nghe mấy lời của vợ miệng thì hỏi, tay thì mằn mò rờ kiếm, thì Hồ lại càng động niềm tơ tóc, xót nghĩa gối chăn mà bủn rủn chơn tay, mắt tuông giọt lệ. Bèn ném gươm xuống ghế rồi vói tay ôm vợ mà hun; thương hóa ghét, ghét đổi lại làm thương; nghĩa hóa thù, thù chưa trả, thù trở ra làm nghĩa. Nghĩ cũng đáng nực cười cho mối nợ ba sinh, trái oan sao khép!
Ôm vợ mà hun hít nựng nịu một hồi cho thỏa tình ân ái, rồi vợ chồng nằm đâu lưng nhau, và ngủ. Ngỡ đặng nghỉ an giấc điệp, hay đâu tấc dạ luống bồi hồi nên nằm thao thức hoài dường có ăn năn trách mình sao nhẹ tánh; hận tình này bao thuở trả xong. Cơn bấy chừ Hồ nằm thao thức chưa phải là thức, ngủ cũng chẳng ra ngủ, Hồ cứ nằm trằn trọc canh chầy, xốn xang gan tấc, vì một lẽ đôi đàng hơn thiệt khó tu lương.
Hồ thật là khổ tâm, chẳng biết sao liệu lượng, giết thì cũng muốn giết mà rửa hờn, mà lòng luống tiếc hoài mày liễu mặt hoa, không đành nhẫn tâm sát hại. Còn đang tấn thối lưỡng nan, Hồ xảy nghe bên tai có tiếng văng vẳng, nói với Hồ: “Hội này ngươi bỏ qua, còn có hội nào người mong giết đặng. Nó đang mê giấc đó, sao không lấy gươm mà giết nó đi cho rồi; còn ân nghĩa gì mà thương tiếc. Thứ loài dâm phụ dầu có phân thây trăm đoạn, xẻ thịt muôn phần đi nữa, cũng chưa vừa thửa tội.”
Nghe lời, Hồ Quốc Thanh xây qua ngó vợ, thấy vợ nằm xây mặt vô vách mùng, Hồ bèn trỗi dậy, vói tay nghe ghé rút lấy lưỡi gươm rồi day lại ngồi cách “chơn chống chơn quỳ” nhìn mặt vợ.
Hồ Quốc Thanh cấp gươm thủ thế ngồi nhìn mặt vợ như vầy đây, thì ai trông vào lại chẳng biết, nghe đến lại chẳng hay rằng phen ni Hồ quyết chẳng dung tánh mạng, làm gì hồ cụng giết vợ mà rửa hờn; song chớ lầm tưởng Hồ không xót nghĩa ấp yêu, nệm tình chăn gối mà làm ra nông nỗi ấy.
Thật thì lòng Hồ thương vợ ít ai bằng. Nhưng bởi khi Hồ nằm một mình xét đến nỗi niềm, chạnh nhớ sự vợ mình ở bạc, là lúc máu ghen sụt sụt, lửa tâm càng dập càng nồng, Hồ lại nghe có tiếng vẳng vẳng bên tai xúi Hồ gặp cơ hội chớ vỏ qua mà uổng.
Vả lại đang lúc Hồ giận lẫy hồng ghen mà có kẻ đốc sử như thế, nghĩa ra có khác nào lửa đang cháy, lại chế dầu thêm, thì lẽ cố nhiên, lòng giận càng dồi, dạ hờn càng dập, Hồ còn hoài ân tiếc nghĩa gì mà chẳng thệ sát thê, đã vậy khi Hồ cắp gươm thủ thế ngồi mà nhìn mặt vợ, Hồ lại còn nghe có tiếng vẳng vẳng bên tai giục Hồ mà rằng:
“Hãy xuống đao cho rồi đi, có ta đây ta nguyện ra tay giúp sức. Cớ sao ngươi còn ngần ngại nỗi gì. Bất quá ngươi giết nó rồi ngươi đem thây mà bỏ dưới ao sen như thây con Đào Anh kia, ai biết đặng mà e lậu sự. Vả lại ngươi là tay nâng thành đỡ vạc, rường cột nước nhà, ngươi không đủ quyền mà xử môt con ác phụ như vậy sao; ai dám làm tội ngươi mà ngươi sợ? Ngươi hãy hạ thủ đi cho rồi, dung chi loài dâm phụ”.
Hồ nghe dứt càng tức càng giận hơn nữa, bèn cầm gươm đưa lân vừa muốn chém xuống. Hồ lại nghe tai bên kia, có tiếng vẳng vẳng, dường như có ai nói với Hồ:
“Đừng đừng, đừng, có nghe lời kẻ bất lương mà nhẫn tâm sát hại! Uổng lắm nà! Lẽ nào ngươi chẳng rõ câu: Thiên hạ chi hữu lưu giữ ái bửu chi nhơn, sao, mà của báu trời đành để cho ngươi nỡ nào ngươi đem bỏ. Ngươi tưởng dễ mà tìm của báu vậy lắm sao? Ngươi có nói vợ người trong lúc chiếc bóng cô phòng, ác dại ngoại tình với kẻ, thì bất quá như một cục ngọc có chút tì vậy chớ hại gì lắm sao, mà ngươi quyết chết? Ngươi xét coi đời mấy ai lựa ngọc đặng vẹn toàn. Ta e cho ngươi giết bỏ đi rồi, sau ngươi ăn năn không kịp lắm chớ! Ta lại còn e cho người sau ngươi tìm không ra thứ trong giá trắng ngần, túng rồi ngươi phải chịu dùng ngọc đầy vích tích.
Đừng, đừng, đừng, có nghe lời kẻ bất lương mà nhẫn độc thương; uống lắm mà! Sắc nước hương trời đời ít khi mà có!”
Nghe lời như mở tấc lòng, Hồ ngừng tay cầm gươm nửa lừng đó mà ngó mặt Hồ phu nhơn, ngồi đó mà ngẩn ngơ, lửng đửng lờ đờ như người trong mộng. Ngó sững nhìn trân cái vẻ phi phàm bất tục một hồi rồi ngồi mà chắt lưỡi lắc đầu; vùng sa nước mắt! Đang cơn đau đớn như vậy, Hồ lại nghe phía tai bên nọ có tiếng nói:
“Chuyện gì mà khóc? Ngươi mảng có tánh yếu đuối như vậy hèn gì đờn bà nó không khi sao đặng, nói vậy hễ sợ giết bỏ đi rồi kiếm lại không đặng, nên phải chịu để cho nó muốn làm ngang nào đặng ngang nấy vậy sao? Trong đạo tùng phu, đờn bà con gái phải lấy tiết trinh mà trao mình cho vẹn; nên phận đờn bà, có tội chi trọng cho bằng thất tiết với chồng; nếu muốn bỏ lên cân cân thử mà coi; thì cái tội đờn bà thất tiết có kém gì trai phản quốc.
Dầu có đem nó mà xử bá đao đi nửa gẫm cũng chẳng vừa mà! Huống chi ngươi muốn xử êm trong phòng cho khỏi tiếng đời dị nghị, thì có chi gọi quá mà có chỗ ăn năn? Ngươi phải biết câu sắc bất ba đào, từ xưa đến đã mấy mặt anh hào phải lụy.
Nếu vợ ngươi đã ngoại tình, tư thông với kẻ, ngươi còn tiếc cái sắc đẹp của nó mà dung chế cho nó, thì ngày sau làm gì ngươi cũng phải chết về tay nó mà di xú bách niên. Chừng ấy ngươi mới có chỗ ăn năn mà ăn năn không kịp đó; chớ như ngươi giết nó về tội trắc nết thì có chi oan ức mà phải có ăn năn?”
Nghe qua, Hồ lấy làm phải, muốn nghe theo mà xuống đao, song còn bị lương tâm bên kia trì kéo, nên còn dùng dằng không nỡ, bỗng không Hồ phu nhơn cựa mình, lăn qua, ôm lấy chơn của chồng mà hun; hun trơ hun trất rồi lại nói:
– Mình ôi! Mình đừng khi nào phụ tôi; xin mình đến bao giờ cũng xót chút thân mỏng manh, chở che giùm thân Các!
Hồ gan dạ nào mà không phải động tâm tình, tay chơn bủn rủn; lòng nào còn mong giết vợ cho đành.
Té ra Hồ Quốc Thanh đã hai phen cầm gươm giết vợ, mà bị thấy mặt hồng nhan mà đắm sắc, nghe lời thanh nhã mà say tình rồi phải nén gươm không nhẫn tâm tàn hại, đã vậy, Hồ ại còn giả quên mà bỏ dẹp những sự tội tình của vợ mình làm, cứ việc đầu ấp tay gối hân hỉ sự duyên như thường, để chông gối trướng trung tới sáng.
Sáng ngày, Hồ Quốc Thanh dậy lo việc binh gia và tiếp đãi những khách quan tới viếng. Còn Hồ phu nhơn, tuy nhà có đủ tớ trai tớ gái, khỏi lo miếng uống, miếng ăn; thật, nàng cũng cứ thong thả hơn chồng, cứ ngồi một chỗ mà sai trai, khiến gái. Nàng khỏi lo hết lo còn gì. Nhưng bởi bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người, nhớ nơi kỳ ngộ nên nàng khoan khoái tấc lòng lo sợ cho Tô Thường Hậu.
Bởi vậy Hồ phu nhơn mặt tươi mà lòng héo, miệng nói cười mà ruột thắt gan teo; lo là lo cho Tô ăn ở chẳng an, sợ là sợ Hồ mà rõ đặng cơ gian, thì ắt Tô Thường Hậu với nàng không toàn tánh mạng. Biết lo sợ vậy nên từ đấy, Hồ phu nhơn, không những giả hình giả dạng, theo dan díu với chồng để tỏ tình vẻ mặn nết yêu mãi thôi, Hồ phu nhơn còn rộng lượng với tôi đòi, cho nó thương mà giấu nhẹm thửa mòi mối lang chạ.
Tới bữa cơm trưa, vợ chồng ngồi ăn vui chuyện nói cười chén thù chén tạc với nhau cho đến khi gần xong bữa không có điều gì xạo dợn, thình lình Hồ Quốc Thanh ngồi nhìn sững ngó trân mặt vợ một hồi, thấy Hồ phu nhơn cười nói như chơi, má đào ửng đỏ, Hồ bèn sực nhớ đến điều ong bướm lả lơi mà tưởng tượng trong trí rằng trong cái buộc chông tình lặng lẽ này, lúc mình không có ở nhà, cũng thường có kẻ lộn vào, ngả ngớn vui say.
Hồ phát giận nổi ghen; song Hồ cũng dằn lòng, không dám nói ra, cứ bưng kín miệng bình, nên nỗi ấm ức trong lòng, chua xót tợ triêu cay ngậm đắng. Hồ cũng ngó cái bàn, cái ghế ngồi ngang nhau, với đôi đũa cái ly để ngang nhau, Hồ càng nhớ khi mình mới về nghĩ lại tức mình ám ách.
Hồ thầm nghĩ: “Đã mấy phen muốn giết nó mà giết hoài không đặng, là tại nơi mình mảng nhìn gương mặt nét mày mà không đành dạ; nay mình giận quyết việc sát tha, mà nếu mình chẳng toan mưu nào cao, kế nào giỏi, cho khác hơn, thì e ra vô ích, đi lại cũng giết nó không đặng vậy hoài, ha chẳng buồn thẹn làm sao.
Vả lại những mấy khi nhìn sắc xem gương động tình không nỡ, mình có nói, muốn giết nó thì phải nhắm mắt xây lưng hoặc toan kế nào cho đừng thấy mặt nó thì họa may; vậy nay, mình toan kế nào cho hay, giết nó mà đừng cho thấy mặt.
Thoảng lại mình phải dụng cách nào giết nó mà không thấy mặt? Nghĩ hễ muốn cầm gươm chém xuống thì có lý nào trở mặt xây lưng; bề nào cũng trở mắt ngó chừng; mà hễ ngó thì thấy tránh sao cho khỏi. Vậy mình dùng gươm mà giết nó có đặng chăng?
Nghĩ tới đây, Hồ thầm hỏi lấy mình như vậy rồi mỉm cười, dường như mầng tìm đặng kế hay; tức thì Hồ buông đũa, đứng dậy bước ra tráng miệng. Chừng uống nước rồi; Hồ lại nằm trên ghế dài, hút thuốc phì phà nghĩ nghị việc mình thêm nữa.
Hồ trộm tính: “Muốn chẳng dùng gươm mà giết nó gẫm có khó chi. Tra một liều thuốc độc cho nó uống, tự nhiên xong việc. Mình khỏi cầm gươm chém xuống mà e thấy mặt không đành, rồi ra công uổng. Mình thừa lúc vợ chồng vui say với nhau, mình tra độc dược vào ly rượu của nó, rồi giả ý chén tạc chén thù, thì nó chạy đâu cho khỏi. Dầu mình có yếu tánh làm lỡ rồi xét thương muốn gỡ, thì gỡ cũng không nổi đặng. Làm gì nó cũng mạng vong”.
Tính tới đây, Hồ lại ngần ngừ dường như còn tiếc; nên ngần ngừ giây lâu rồi Hồ lại nói: “Tiếc làm gì nà! Thứ đồ dâm phụ bội phu, giết phứt nó cho rồi một kiếp!”
Quyết vậy rồi, Hồ dẹp lại một bên đứng dậy đi tới đi lui, đi ra di vào, cùng vợ nói cười vui vẻ. Hồ phu nhơn đâu có thấu nỗi niềm! Giấu nhẹm tội mình, lầm tưởng chồng thương, chồng yêu như thường, nên cứ theo đỏng đảnh với chồng, cạ vế kề vai, đứng ngồi ngả ngớn. Nào dè chồng sâu độc trong lòng, xét biết nỗi mình, mua ngày mà ở. Nào ngờ mình phải chết về tay chồng!
Giây phút, vợ chồng đem nhau vào phòng cùng nhau gối chung đầu an giấc.
Hồ phu nhơn nào rõ thấu lòng chồng!
Bởi Hồ phu nhơn không thấu nỗi lòng chồng hòng biết đặng khúc sâu khúc cạn, nên cứ lầm tưởng chồng mình thật dạ tóc tơ, nặng tình vàng đá mãi ru. Lầm tưởng tấc lòng của chồng là một cái bể thương, ngàn thước mênh mông, không thể nào dò rún; lại như cái bể thương ấy chẳng khác chi hơn là lượng sóng tình, bấy lâu nó đã làm cho chồng mình mê vì sắc trọng vì tài, mà phải chịu ngày đêm dập giả; chớ nàng có dè đâu bể ái cạn giòng, nguồn ân lấp mạch; khiến nỗi, tình yêu thành oán, dạ mến hóa thù; quyết một lòng giết gái bội phu, để răn lũ gian phu dâm phụ.
Vì không thấu cơ gian, lầm tưởng tình chồng nghĩa vợ, Hồ phu nhơn mới dám sớm những tối đắm say chăn gối, ngày lẫn đêm nồng mặc ái ân: cho nên nàng an lòng nằm mà mơ mộng Huỳnh lương, nào biết cái chết đã hầu kề, đứng đợi mà rước hồn nàng về quê cũ, nghĩ cũng đáng tiếc cho một cái mảnh thiên hương, không gặp cơn dông gió bão bùng mà phải cam lấy phận gãy nhành lìa cội!
Ngỡ cho Hồ Quốc Thanh khi nóng còn có khi nguội, lúc giận còn có lúc thương, nên tuy tính kế độc thì tính, toan mưu sâu thì toan vậy thôi chớ làm gì rồi cũng bỏ qua; chớ người đời không ai yêu hoa, mà nhẫn tâm đưa tay ra làm đến đỗi vùi hoa dập liễu.
Dè đâu Hồ Quốc Thanh nhẫn tâm, không xót phận yếm mang quần vận; chàng toan mưu cầm gươm giết vợ không được rồi quyết tra độc dược; nên chàng từ xong bữa sớm dẫn cho tới buổi tối, cứ theo gạt Hồ phu nhơn giả ý:
Bề ngoài lợt lạt nói cười,
Mà trong nhan hiểm giết người không đao!
Chàng mới bỏ thuốc độc vào rượu, để riêng một nhạo, chờ tới bữa cơm tối, chàng lấy tình phu nghĩa phụ mà ép uổng Hồ phu nhơn cho quá chén lỡ say, không cũng có hơi xoàn xoàn đi rồi, chàng sẽ rót ra một ly rượu hồng mà mời ép nàng, dùng lấy một là rưới tắt lửa lòng hai nữa rửa sạch bụi trần, phủi rồi sự thế! Vậy mà Hồ phu nhơn, thảm thay, tin chồng nào dè mắc phải tay chồng!
Bởi vậy khi hai vợ chồng dùng bữa tối, Hồ Quốc Thanh cứ theo ép vợ chén tạc chén thù, cứ lấy nể giặc đã dẹp yên, nay trong tỉnh bốn phang đều phẳng lặng; vợ chồng há chẳng, thừa lấy đêm thanh, cảnh vắn tình dài, cất chén giao hoan bỏ lúc vợ thì chiếc bóng cô phòng, chồng luống chịu nằm sương gối vác. Hồ phu nhơn tin lòng chồng chẳng dám chối từ, nên nỗi lỡ say về quá chén.
Bấy giờ Hồ Quốc Thanh mới tráo nhạo thuốc độc vào, mà dẹp nhạo rượu đào ra; rồi chàng rót một ly đầy, tay cầm lấy mà trao cho vợ. Hồ phu nhơn biết đã quá say mà từ chối mãi không qua, bị Hồ Quốc Thanh cứ theo lấy nghĩa vợ chồng mà ép nàng chén tạc chén thù, cho sự duyên hân hỉ.
Nghe lời, Hồ phu nhơn còn dám chối từ nữa sao. Vả lại nãy giờ, nàng đã tin đã vì bụng chồng mà uống hơn năm bảy ly rồi, không sao; không lý còn một ly này, chồng đã ép uổng hết lời, mà nàng không nỡ không vâng lãnh, Hồ phu nhơn, cực chẳng đạ vị lòng chồng mà phải vâng; nên khi thò tay mà bưng lấy ly rượu của chồng, nàng sắc vui cười, má đào ửng đỏ; xem cái dung mạo của nàng chẳng kém gì Tây Thi giáng thế, Hằng nữ ly cung; làm cho Hồ Quốc Thanh, chưa trao ly rượu qua tới tay nàng, mà đã ngồi mặt nhìn mặt càng ngẩn ngơ, quên hết sự đời, lại lầm tưởng cho mình lạc lên thiên thai, để bước tới Đào Nguyên động. Thấy vầy tiếc quá, không đành!
Bởi vậy chàng bưng ly thuốc độc chưa trao qua tới tay nàng chàng đã chạnh lòng ăn năn, thương tiếc nguồi nguồi, dạ bao đành dạ; chàng bèn ngả ý sút tay, buông ly xuống đất đổ hất cho rồi.
Hồ phu nhơn lúc bất cập có vói tay qua chụp mà chụp phòng kịp, ly sa xuống đất, đổ rượu bể ly; vợ chồng trơ mắt nhìn nhau mà cười, rồi lại ôm nhau mà hun, kể sao xiết nỗi niềm ân ái!
Lúc bấy giờ Hồ Quốc Thanh còn nhớ tưởng điều chi khác hơn là tình đầu dan díu, nghĩa ấp yêu; ví biết chàng mà buông ly thuốc độc ấy rồi, khi tỉnh rượu chẳng phải lòng chàng không bức bức. Hồ nghe vẳng vẳng bên tai, có tiếng trách móc Hồ sao đã gặp cơ hội rửa hận tình, rồi lại có say đắm cái sắc tuyệt trần mà bỏ qua cơ hội.
Trách rồi lại hỏi: “Chừng nào thù ấy mới trả xong? Hay là ngươi cam lòng, chồng hai vợ một?”
Nghe hỏi đến điều chồng hai vợ một, Hồ Quốc Thanh, tuy tỉnh giấc say, mà đã dững mày trợn mắt. Sực nhớ lại nỗi nhà, bèn giận căm gan mà thầm đáp rằng:
“Bất quá ta vì lỡ say mà bỏ qua cho một lúc đó thôi, chớ ta mà kết oán thù thâm, hận thầm trong dạ rồi, ta dễ chịu nhục mà để vậy cho cái lũ gian phu dâm phụ ấy nó khi ta mãi sao. Không! Làm gì ta cũng chẳng dung; mà ta lại nguyện một đêm nay, ta xử rồi ân oán”.
Đồng hồ đã điểm mười; Hồ Quốc Thanh nằm nghĩ nghị một mình, xốn xang tợ như kim châm dạ. Nghĩ đã mấy phen rồi, mưu này không đặng, thì tới kế kia, không dùng gươm linh, dùng qua độc dược, mà làm cũng không thành sự; bèn thầm hỏi: Hay là chưa tới tuần thời, số mạng của nó chẳng phải chết về tay mình, nên xuôi khiến lòng mình sùi sụt. Mình hỏi lấy mình vậy rồi, Hồ nổi gan vùng nói, song cũng nói trong bụng rằng:
“Nếu nói số mạng của nó chẳng phải chết về tay mình, nên mình muốn giết cách nào cũng không đặng, thì số mạng mình đây có phải chết về tay nó chăng? Vì hễ mình không giết nó, thì có ngày nó giết lại mình; thứ đờn bà ngoại tình, lòng sáu độc, nhứt dạ sanh bá kế. Kìa từ xưa đã mấy mặt anh hùng, đắm sắc say tình mà phải lụy mình về phụ nữ? Làm gì ta cũng chẳng dung, song bấy giờ đây ta chưa biết liệu kế nào hay làm cho nên việc”.
Nghĩ tới đây, Hồ lấy làm bực mình lắm nỗi. Nghĩ mình là một tay anh hùng từng trải việc chiến tranh, vào sanh ra tử, ai lại chẳng nghe danh mình văn võ kim toàn, mưu mô nhả tháo; một kế mọn của mình cũng đủ mà phá nỗi ngàn tướng thiên binh; huống chi một mảnh má hồng, phụ nhân nan hóa, ngoài cái sóng sắc, thì nó chẳng có cái tài gì lạ hơn; mà ta không mưu chi giết nó đặng thì há chẳng hổ thâm cho cái chí trượng phu sao?
Nghĩ vậy nên Hồ tức mình, trằn trọc canh chầy, thao thức hoài không ngủ; hết sức nằm lăn qua lộn lại rồi, Hồ trỗi dậy đi tới đi lui, đi ra đi vào, toan mưu liệu kế. Hồ lại thường thệ quyết trong lòng nếu chẳng trừ nổi cái lũ dâm loàn này mà trả hận tình, sau rửa sạch nhuốc nhơ cho tên tuổi, thì thà là khuất mặt còn hơn đau lòng, thác trong sống đục.
Tới đến đây, Hồ vừa xây mặt ra, chợt thấy trên bàn ăn, hai con thằn lằn cắn lộn. Con cái thua chạy, con đực rượt theo; lúc bất cập, con cái nhảy đại, chạy đùa, bộ sợ hãi dường như chạy chết, chẳng may vào nhạo rượu không đậy nắp còn dễ tại trên bàn; đã rủi lại còn rủi thêm, té mà cắm đầu xuống, đưa đuôi lên, vùng vẫy hết sức mà cất mình lên không nổi. Bị rượu còn nhiều, nên cạnh đó mà chịu uống rượu một hồi, rồi ngất lên nhắm mắt, Hồ bước lại kéo con thằn lằn ra coi; đứng mà ngó coi giây phút rồi thấm ngẫm gật đầu, miệng cười chúm chím.
Hồ bèn để đó vào giường kêu vợ dậy coi, Hồ phu nhơn khi nãy đã quá chén lỡ say nên giấc mê chưa tỉnh, thình lình nghe tiếng chồng kêu; cực chẳng đã, phải gượng mà mở mắt trở lời chớ dậy sao cho nổi Hồ thấy vầy lại ôm vợ mà hun hít nựng nịu một hồi rồi đỡ xốc dậy, bảo ra coi sự lạ.
Hồ phu nhơn từ chối đôi ba phen không đặng, sợ cực lòng chồng, nên phải ép chi mình gắng gượng bước ra; ra tới bàn, Hồ phu nhơn ngồi dựa ghế lim dim, để chồng kể thuật. Nghe nói tới con đực rượt con cái chạy chẳng may sa vào nhạo rượu uống rượu mà chết, thì Hồ phu nhơn vùng mở mắt tỉnh tuồng, ngồi ngó sững cái thây con thằn lằn còn để nằm kia, rồi day mắt ngó chồng mà nói:
– Nhân vật giữ đồng!
Người đời có hiền nhân quân tử, cùng thất phu ngu xuẩn tiểu nhân; vật cũng có giá thấp phẩm cao, khinh với trọng bởi lòng hiền dữ. Con thằn lằn đực mà ra oai thạnh nộ, làm cho con cái phải sợ hết hồn, thì có khác nào loài người, bực hạ lưu, có lắm kẻ tiểu nhân, đã chẳng thương chút thân nhược chất, liễu bồ, lại còn làm hùm làm hổ, mong ra sức dập hoa vùi liễu.
Dứt lời Hồ phu nhơn ngó chồng mà cười rồi lại hỏi:
– Bộ khi hết rượu rồi sao, nãy giờ không thấy nhậu?
Hồ Quốc Thanh đáp:
– Rượu còn đây chớ hết đâu, song uống không đặng, vì bởi con thằn lằn té cặm đầu vào trong mà chết.
Nói rồi Hồ vội vàng, lấy nhạo rượu mà trút ngay xuống đất. Trút hết rồi, Hồ lại nói:
– Mình chịu khó kêu thế nữ dậy, bảo nó xuống hầm rượu chiết cho tôi một nhạo khác.
Hồ phu nhơn liền đáp:
– Có tôi đây làm gì mà phải cậy tay ai cho nhọc. Để tôi đi chiết rượu lên cho, kêu thế nữ làm gì, mất giấc ngủ đang mê tội nghiệp!