Người bán ngọc bày mưu mua ngọc,
Kẻ vô tình mắc kế say tình.
Trong nước Trung Huê, người có đến có biết, không tỉnh nào người xinh cảnh lịch bằng tỉnh Tô Châu; thật là một cảnh phiền ba, nữ tú nam thanh, quan quân đô hội. Người chưa từng biết đến, mới để mắt trông vào thầm tưởng mình còn trong mộng huỳnh lương; lạc nẻo tới cảnh Thiên thai Bồng đảo.
Bởi vậy những vương tôn công tử, phú hộ hào gia, cùng là những khách phong lưu ở viễn phương nghe tiếng tìm tới chơi thường hay lấy đêm làm ngày tỉnh say canh vắng.
Hễ tối lại rảo bước chung quanh thành phố, ngoảnh mặt ngó lên cửa sổ lầu, thì thấy, đèn giăng sáng rỡ, nghi tiết trang hoàng, đờn địch nhặt khoan, ca xang lảnh lót. Trừ ra những người không có chút tình gì, mới là ngơ mắt lãng tai, bỏ qua không nghĩ tới. Chí như những người mà có mang nặng chữ tình còn bận bịu bên lòng, dầu là ở cách xa, vẳng nghe tiếng đờn ca, cũng tìm đến dưới lầu, đứng lóng tai nghe quên khuya quên sáng.
Cớ ấy nên trong những đêm có đờn ca, chẳng cần đếm canh gà, giờ nào trước nhà cũng có thiên hạ tựu coi đông nức.
Một ngày kia, cũng còn trong tiết xuân, tính chắc lại nhằm bữa rằm tháng Giêng, lúc trời đã rạng đông, vầng Ô lố mọc, trên chót một cảnh lầu ba tầng trở cửa dựa mé sông, rã tiệc đờn ca, thấy một vị thiếu niên, trạc chừng ba tám; râu mày nhẵn nhụi, quần áo bảnh bao, diện mạo khôi ngô hình dung tuấn tú, ở trên đi xuống tới dưới rồi khoan thai bước ra lên xe dặn xa phu: “Mau đưa ta lên chùa Bảo Anh lập tức!”.
Những người còn đứng ngóng xem, chưa trở gót, nghe nói chùa Bảo Anh, đều biết là một cảnh chùa rất linh thiêng, xa gần đều sùng bái; vì ai có lòng muốn cầu khẩn chi, đến cầu cũng đặng; nhứt là cầu con và ký bán con trẻ lại càng đặng. Nghe bảo mà không hiểu vì thiếu niên ấy bổn phận làm trai, xét chẳng cầu khẩn việc gì mà phải bôn đến chùa bảo Anh gấp vậy; nên ai nấy đều trơ mắt nhìn nhau, ý dường như muốn hỏi nhau cho biết. Giây phút, trong bọn có kẻ nhớ lại, nói ra mới hay, bữa nay là ngày rằm tháng Giêng, chùa Bảo Anh làm chay, thiên hạ tới lui náo nức, mà nhứt là thiện nam tín nữ xa gần, kẻ hoa quả, người hương đăng tới cúng; làm ra cái cảnh chùa Bảo Anh từ đây tới bữa xô giàn; hóa ra một cái cảnh khác thường.
“Dập dìu nữ tú, nam thanh.
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.”
Cho nên hàng vương tôn quí khách cũng tựu tới chùa Bảo Anh để xem chơi cho thỏa chí chớ gì.
Kẻ khác lại nói:
– Vậy thì chúng ta cũng nên noi gương, thừa nhàn rảo bước đến coi chơi cho biết.
Dứt lời cùng nhau nắm tay ra đi.
Khi nội bọn đến chùa Bảo Anh bước vào, thì đã thấy vị thiếu niên lên xe khi nãy kia, đang đứng nhìn trăn trối, một người đờn bà nhỏ, trạc chừng ba bảy, nhan sắc tuyệt trần. Đến khi người đờn bà ấy bước ra thềm, lên kiệu mà về, thì vị thiếu niên lại ngó theo cho mãn nhãn, rồi cũng vội vàng bước ra, lên xe giục theo sau kiệu.
Xe theo mãi cho tới ngoại thành rồi cũng còn theo. Chừng kiệu về tới trước cửa dinh, quanh vào ngõ mất rồi, vị thiếu niên cũng còn thơ thẩn ngoài rào, thả xuống thả lên, chưa chịu giục xe trở bánh.
Ý người mong mỏi tìm hỏi cho ra. Mà biết hỏi thăm ai bây chừ? Có ai lại qua chốn nầy, phòng hỏi!
Duy có đôi ba con trẻ lên bảy chạy chơi, chúng nó có biết gì mà hỏi thăm; hỏi tới chúng nó ngẩn ngơ, trở mắt vảo tai mà không hiểu thấu.
Ấy mới quả:
“Người một nơi, hỏi một nơi,
Mênh mông nào biết bể trời là đâu”.
Đi qua đi lại, đi lui mãi thế mà không gặp đặng ai hỏi thăm, vị thiếu niên ấy tuy không ngả loàng cho ra chán ngán, chớ cũng đã chạnh dạ sầu tư; lúc bấy giờ mặt trời lên cũng đã cao, lại nhơn tiết tháng giêng, xuân hầu qua hạn gần đến, hơi nắng đã nực nồng, vị thiếu niên bèn nương bóng cây bên triền lộ đứng khoanh tay mà ngó mong, ngó đầu nầy hết sức xem cuối kia, trông mong gặp khách qua đường, thăm hỏi thử nàng cho biết.
Mà nào có thấy ai đâu! Thảm thay cho kẻ hữu tình, mắt càng ngón trông, lòng càng thắm thía, ý càng trông đợi, dạ càng ngẩn ngơ! Vả lại, lúc mới gặp mặt nàng tại chùa Bảo Anh, thì chàng đã rõ biết nàng là gái có chồng; lẽ gì chàng có học, có biết bài thơ của anh Địch Nhơn Kiệt làm nơi quán thuở nọ rằng:
“Mỹ sắc nhơn gian tối lạc xuân,
Ngả dâm nhơn phụ, phụ dâm nhơn,
Nhược tương mỹ sắc tư vong phụ
Bán thế thơ toàn tuyệt sắc tâm”.
Thì chàng xét biết phận mình là trai, phải đối với gái có chồng cách nào mà xa lánh; nhưng bởi cái nết hồng nhan không thuốc mà mê nó khiến cho chàng thấy mặt phải lòng, vội quên cái thân hồ thỉ bốn phương, say đắm phù dung chi sắc, cho ra người mơ bóng tưởng hình, mang mễn khối tình triệu triệu.
Hết sức ngó mông đầu nọ cuối kia, rồi chàng đứng khoanh tay xây mặt ngó vào dinh, mong mỏi thấy hình người ngọc. Chưa biết cái hy vọng nầy đến bao giờ mới kết cuộc cho chàng mãn nguyện!
Chớ cơn bấy giờ đây sự ước mơ của chàng nó khiến cho chàng thấy dạng một con thế nữ chàng cũng mầng tưởng ra nàng; thấy bóng một con đòi, chàng lại định cho nàng tới; cho đến khi nghe ngọc xuân phong thổi đến, khua lá đầu nhành, chàng cũng giựt mình, vội tưởng có người ngọc đến.
Ngóng trông mãi không đặng, chàng đứng lâu cũng mỏi; mới sấp lưng đi tới đi lui, đi mà gương mặt dàu dàu, nét mày ủ dột, bộ coi lơ thơ chẳng khác nào Kim Trọng xưa tìm hỏi Kiều nhi; may đâu, đi tới khúc đàng quanh, thấy trước mắt một cảnh nhà tranh, có một lão bà da mồi tóc sương, đang cha61o nối tầm tơ sốt sắng. Chàng ghé đại vào, ý không ngại ngùng chút nào.
Chàng vào vừa tới, bà vừa ngước mặt ngó ra, chưa kịp tiếp chào, đã thấy chàng cúi đầu, chấp tay thi lễ. Lão bà, tuy tuổi tác đã già mà có tính thật tha chơn chất. Tự ấu chí trưởng chỉ biết một nghề cũi lục làm ăn theo thú quê mùa, ít oi lễ nghĩa; nên dầu là vương tôn quí khách đến nhà bà, bà cũng tiếp đãi sơ sài như một người lân cận, không hề biết làm màu mè, bãi buôi theo phép lịch sự như người chốn phiền ba thằng cảnh. Bởi vậy khi cậu bước vào thi lễ, bà gượn gạo chào tiếp hỏi cậu đến già có việc chi cần, rồi bỏ qua, lo làm công chuyện.
Tay viết truyện bàn rằng:
Người thông thạo như vị thiếu niên nam tử nầy thấy bà tiếp đãi sơ sài, cấn công đến thế, nên để lòng khen, chớ không trách; nghĩ vì bà sinh đời trước mà bà đã biết rõ “một tấc quang âm một tất vàng”, nên bà không chịu lãnh phí thì giờ để ngồi cầm khách.
Gẫm phép lịch sự nào cũng không thế nỗi tay làm hàm nhai của bà. Ấy cũng nên gương cho phụ nữ đời nay, nhà không dư để dư ăn, mà dám lãng phí thì giờ, luống công vô ích!”.
Cậu thiếu niên đứng coi bà chấp nối tằm tơ và kiếm chuyện giả đàm giây phút rồi hỏi thăm bà:
– Thưa bà, chẳng hay dinh ở cách xa nhà bà chừng trăm bước là dih của ai, giá cao phẩm trọng lắm sao mà ngoài ngõ có một đội quân canh xem ra nghiêm nhặt, vậy bà?
Lão bà mỉm cười và đáp:
– Vậy chớ cậu là người ở đâu mới đến đây mà không biết dinh ấy là dinh quan Đề đốc Mã binh Cách mạng?
Thiếu niên:
– Thưa bà thương phận cháu con mựa chấp, bởi cháu là khách viễn phương mới đến đây, chưa rõ đặng nhơn vật cảnh tình xứ nầy chút nào, nên thấy thì hay thấy, thật không hay biết.
Lão bà:
– Nếu cậu không biết thì mụ nói cho:
Quan Đề đốc này họ Hồ tự là Quốc Thanh, vẫn cùng một tay anh hùng tạo thời thế, nên đã lập đặng công lớn với nước với dân trong cuộc khởi nghĩa, đạp đổ nhà Thanh, dựng nghiệp Trug Huê Dân quốc. Nhờ công cán ấy, tân Chánh phủ mới phong cho ngài chức Đề đốc tọa trấn tỉnh Tô Châu. Ngài ngồi đây cất dinh ở đó cũng gần giáp năm; nhơn lúc sau nầy quân cường đạo nó tụ đảng sơn đầu nhiễu loạn. Ngài vâng chỉ đi dẹp chưa về. Lúc nầy không có ngài tở tại dinh, nhưng bởi tính ngài nghiêm khắc hẳn hòi, nên quân lính chẳng hề dám ci quân lịnh; ngày đêm cứ canh giữ thường xuyên.
Thiếu niên:
– Bẩm bà chẳng hay ngài niên kỷ bao cao; người đờn bà nhỏ ngồi kiệu về dinh khi nãy đó là con cháu chi của ngài, hay là …
Lão bà:
– Ngài là một vị anh hùng thiếu niên, nên tuy ngài chức trọng quyền cao, tọa trấn tỉnh Tô Châu nầy, chớ tuổi chưa đầy ba chín. Ngài mới cưới vợ đâu đặng vài tháng kế có chiếu chỉ sai ngài tương binh dẹp loạn. Người đờn bà nhỏ cậu thấy ngồi kiện về dih đó là lịnh phu nhơn của ngài; bà ở nhà một mình quạnh quẽ loan phòng, thương chồng nhớ bạn, nên mụ có ngha nhân tuần thượng ngươn, bà đến chùa Bảo Anh dưng hương để cầu cho chồng bà bền quân thắng trận.
Thiếu niên:
– Đáng thương dữ a!
Lão bà:
– Húy! Cậu này bộ gươm máy kêu cỗ hay sao mà kiếm điều nói bỡn vậy hử?
Thiếu niên:
– Thưa bà, trẻ mô dám nói bỡn. Từ trẻ gặp người đờn bà nhỏ nầy tại chùa Bảo Anh, trẻ thầm khen là tay quốc sắc thiên hương, làm cho trẻ phải lòng thầm dấu trộm yêu mà tiếc than trong lúc cháu nom theo sau xe rằng:
”Giá đành trong nguyệt trên mây
Hoa sao hoa khéo dã dày bấy hoa!
Nổi cơn riêng giận trời già,
Lòng nầy ai tỏ cho ta hỡi lòng?”
Bấy giờ theo đến đây, nhờ ân của bà dạy bảo, cháu mới hay người trong cửa giàu sang; cháu nói thật, phải chi mà …
Vị thiếu niên nói tói đây, lòng có ơi ngần ngại, nên miệng nọ ngập ngừng; lão bà tuy nghe chưa dứt câu, mà hiểu ý cậu muốn nói lẽ gì, nên lấy làm lạ quá, ngoảnh mặt, dững mày, trơ mắt ngó ngay cậu mà hỏi:
– Cậu nói thật, phải chi mà … làm sao, cậu nói dứt cho già nghe tất?
Thiếu niên:
– Bẩm bà, cháu nói ra e bà quở la đó thôi; bà nghĩ cho cháu là đứa kiếm ăn theo lối nguyệt hoa, không cửa không nhà, không cha không mẹ, trôi nổi tới đây kiếm điều nói bỡn, như kẻ tưởng lầm đàn vắng hát chơi; chớ thật, cháu không phải như kẻ bà tưởng đó đâu; cháu dám ước ao, phải cho mà trời khiến xui cho người đờn bà non ấy cùng cháu nên điệu tào khang, cháu nói thiệt, dầu phải đem mà đúc nhà vàng cũng đáng.
Lão bà:
– Cha chả! Chẳng hay cậu là con nhà ai ở đâu? Quẹ ở tỉnh nào? Sự nghiệp dường bao? Cậu nói chuyện cầu cao đến thế?
Thiếu niên:
– Thưa bà, cháu quê ở Quế Châu; bà biết Quế Châu là một tỉnh phú cường hơn hết trong nước Trung Huê Dân Quốc. Vì rủi phận mẹ cha sớm mất, để lại cho cháu sự nghiệp trăm muôn mà cháu chưa nên bề nghi thất nghi gia; cháu nghĩ cháu dầu có học đòi thiên hạ lấy của che thân, ra mà lo làm quan cho tới bậc công hầu cũng chẳng chi là, sao bằng ở không vậy cho thong thả, tìm danh thắng xứ xa du lịch. Cháu nghe đồn, tỉnh Tô Châu người xinh cảnh lịch, có ,ắm mặt phù dung, đẹp như ngọc châu không vết không tì; cháu muốn tìm đến Tô Châu xem chơi cho biết, song không biết lấy chi làm cớ mà ở chơi cho lâu; cháu mới mượn lấy nghề bán ngọc ra đi, đặng mà tìm người ngọc họa khi có gặp. Tới đến đây, ngẫu nhiên ngộ thiên hương quốc sắc, chưa biết phải chăng số trời xui không mà khiến cho cháu, nặng khối tình thấy mặt dạ đành; cháu quyết lòng đem tơ loan xin nối kim lành, nhưng mà cháu luống ngại, vì chưa ắt, cuộc giai ngẫu thiên thành có định. Nếu mà mà đặng Dì gió với Ả trăng giùm tính, tính sao cho hai họ sính nguyên đào; dẫu có đòi chày vàng cùng cối ngọc cũng chẳng cao, cháu nguyện, cầu Lam đến xin vào nạp thể.
Lão bà:
– Cậu chó tưởng, cầu Lam mà dễ, dẫu nhà vàng chứa dễ cũng không; cậu cũng rõ biết, Hồ phu nhơn là gái có chồng, chẳng mặt gà đồng mèo mả. Mụ nói đến điều nầy cho cậu nghe: Mục chẳng phải là người xa lạ, mụ ra vô trong dinh cũng thường, mà mụ thấy quân lịnh truyền nghiêm quá mụ ghê; quân lịnh dạy rằng: Ngày nào Hồ gia chưa thắng trận trở về, thì cấm nhặt nam nhân bất luận lão ấu, không ai đặng, vào ra chốn phòng khuê cửa các. Bởi vậy mới có, ngoài ngõ đặt đội quân canh gác, ai vào ra kiểm soát hẳn hòi; thấy vậy mụ cũng ít dám vào, trừ khi nào có lịnh bà đòi, mụ mới dám lần hồi tới cửa. Cậu mà muốn nhuốm nhen hương lửa, gẫm khác chi là sứa nhảy đăng; cậu nghĩ đó coi, ai những không phải mặt Minh hoàng, vào thềm quế cung trăng sao đặng? Cậu chớ ngỡ đây là đàng vắng, vách có tai chớ chẳng phải chơi; nước tới trôn khó lội không bơi, họa dấy đến kêu trời sao thấu? Thôi đi, cậu cũng chẳng nên gắn bó theo cái hy vọng đó làm gì.
Thiếu niên:
– Thưa bà, bà giải hết những điểu nguy sự hiểm như vậy mà khuyên cháu vậy, cũng phải; nhưng mà xin bà mựa chấp, tình thật cháu khai, ngay – nhưng mà tấc dạ ước mơ từ khi thấy mặt, tấm tình hoài ái từ lúc phải lòng, nó theo chằng chằng buộc mãi; nó lại còn dặn bảo từ phút nhắc nhở từ hồi rằng, nếu cháu chưa gặp người ngọc mà vội về, thì nó quyết làm cho cháu trằn trọc đêm trăng, thiết tha canh vắng, đó bà. Chớ chi bà có mưu chi hay, kế nào giỏi, hay là bà có phép thần thông biến hóa, bà đem cháu vào dinh cho cháu thấy người quốc sắc thiên hương, cho phỉ chí như cuộc Minh hoàng du nguyệt, thì cháu nguyện – xin bà rộng lượng thứ dung nếu lời cháu nói ra có điều xúc phạm – vì phận côi cút, đem hết cái sự nghiệp trăm muôn về tỉnh Tô Châu nầy để nuôi bà làm mẹ, nếu bà chẳng may không người lập tự.
Lão bà:
– Cảm ân cậu có lòng quảng đại tưởng đến phận già. Mụ tưởng cái thân góa bụa đang thần nhỉ thuận, lại thêm nhà vắng trước quạnh sau như vầy đây, có chi may mắn cho bằng có người giàu sang như cậu mà đem về hoạn dưỡng. Mụ đã lăn lộn chi đâu (mụ và nói và mỉm cười) hòng chẳng biết phước đến cho mụ trong lục cận địa viễn thiên, nan thức âm dương chi nhựt mà không vui thọ hưởng; song mụ nghĩ, điều cậu muốn đó chẳng dễ gì cho mụ làm xong; mụ tưởng thà mà cậu bảo mụ trèo cây đếm cá, mụ còn có thể tính kham, hơn là cậu dạy mụ tìm vàng sông lệ. Mụ e cho mụ thây gởi bãi bùn, xác nương hàm cá lắm cậu! Chớ chi cậu là người buôn bán đồ quí chi báu, mà cũng là phụ nữa như nhau, thì mụ còn có thế, dầu khó cách nào, ráng đem cậu vào tới trong dinh cấm; ngặt cậu chẳng phải là tay nuôn bán chi …
Thiếu niên:
– Thưa bà, cháu đã thưa cùng bà, cháu là tay bán ngọc.
Lão bà:
– Mà cậu lại là đờn ông, quân lịnh cấm nam nhơn vào ra cửa các, thì mụ mới biết tính sao cho thành.
Thiếu niên:
– Ước như cháu đổi làm một người đờn bà bán ngọc, bà có thể đem vào dinh cấm ấy chăng?
Lão bà:
– Nếu cậu là phụ nhân mụ chẳng đợi dày lời năn nỉ. Mà cậu sao trở nên đờn bà cho đặng? (Nói tới đây lão bà cười xoa, rồi lại tiếp). Cậu phải biết rất đỗi ngọc ẩn đá, mà hãy còn có Biện Hòa coi ra đặng; huống hồ chi loài người ta, dễ gì lấy vải thưa che mắt thánh lắm chăng? Thôi thôi, cậu cũng chẳng nên mơ ước việc không có mà làm gì:
Vả trong thềm quế cung trăng,
Chữ Trương đành đã chị Hằng ở trong.
Thôi, cậu hãy về đi! Cậu có tưởng đến thì mụ cám ơn, chó thật, việc của cậu muốn đó, có quan hệ lớn, mụ quyết không làm đặng.
Dứt lời, vị thiếu niên cũng gượng người, rồi móc túi lấy vàng bạc ra làm lễ tạ ân bà mà từ giã. Lão bà chối từ hết sức không đặng; vị thiếu niên bỏ ra đi. Vị thiếu niên đi rồi lão bà lấy vàng bạc đem đi cất, nghĩ đến cũng thương tình, song khó nỗi giúp người thành nguyện.
Sáng ngày, lúc trời bình minh, bà mới mở cửa, thì đã thấy vị thiếu niên ngừng xe, xách gói xăm xăm đi vào; bà vội vã tiếp chào, khuyên mời trà nước. Lão bà mới hỏi:
– Nay cậu đi bán ngọc hay đi đâu mà xách gói ra đi sớm vậy?
Thiếu niên:
– Thưa bà, cháu đi bán ngọc, chớ có đi đâu. Hồi hôm về, cháu nằm nghĩ mấy lời bà khuyên giải rất phải, nên cháu đã bỏ dẹp sự tình. Nếu nay cháu còn tới nhà bà sớm như vầy đây, chẳng phải cháu vì tình mà vì lợi.
Lão bà:
– Cậu vì lợi nào đến đây, nói cho mụ biết. Nếu có thể giúp cậu đặng lợi, dầu khó mấy, mụ cũng chẳng từ.
Thiếu niên:
– Thưa bà, cháu nghĩ cháu là tay bán ngọc, bà là người quen thuộc trong dinh; bà dầu không khứng giúp nên tình, lý nào chẳng nghĩ mình mà giúp lợi. Nghĩ vậy nên cháu muốn đến thưa cùng bà dắt giùm cháu vào dinh bán ngọc cho Hồ phu nhân thôi. Xét vì Hồ phu nhân nhà giàu sang hơn hết trong tỉnh này, không lý không yêu ngọc. Nếu bà mà dắt cháu vào dinh đặng, cháu bán có ít nào cũng đôi muôn; cháu hứa cùng bà, lời bao nhiêu cháu cũng chia hai, bà phân nửa, cháu ăn phân nửa; chẳng hay bà có khứng vậy không?
Lão bà:
– Làm sao không! Cậu phải biết, bữa qua cậu mới đến, mụ chưa quen biết thì không nói gì; chứ như từ cậu ra về, hồi hôm tới giờ, mụ nghĩ lại mụ thương tình cậu lắm. Cho nên, mụ nói trong bụng mụ rằng: cậu mà cậy đến việc gì mụ có thể làm xong, ắt mụ không từ chối; há cần phải chia lời chia vốn mà làm gì. Nay cậu muốn cậy mục dắt cậu vào dinh Hồ phu nhơn bán ngọc, thật mụ sẵn lòng song ngặt có một điều cậu là đờn ông – bộ cậu quên lời mụ nói rồi sao? Phạm quân lịnh làm sao mà đặng.
Thiếu niên:
– Thưa bà, cháu chưa quên. Nếu cháu xin bà ra sức dẫn kiến vào dinh bán ngọc, là cah1u đã sắp đặt sẵn một người đờn bà có phẩm hạnh đi theo bà, chớ phải cháu đi hay là đờn ông nào đâu mà bà hòng ngại.
Lão bà:
– Nếu cậu có sắp đặt đờn bà vào dinh bán ngọc, thì mụ sẵn lòng dắt đi liền, chẳng màng sự chia lời chia vốn. Mà người đờn bà ấy là ai? Ở đâu bây giờ? Chừng nào đến đây đặng đi theo mụ?
Thiếu niên:
– Thưa người đờn bà ấy chẳng lạ với bà, mà cũng chẳng đâu xa; bà muốn thấy mặt đến bao giờ cũng đặng.
Lão bà:
– Ủa! Cậu nói chi nghe lạ vậy? Mụ thì tình thiệt, cậu nói sao coi ý như chơi vậy cậu?
Thiếu niên:
– Thưa bà, cháu mô dám kiếm lời pha lững, buông tiếng nói chơi với một người tuổi tác đáng kính trọng như bà.
Lão bà:
– Vậy chớ sao cậu nói sao nghe lạ vậy?
Thiếu niên:
– Thưa bà, lời cháu nói là lời thật đó chớ.
Lão bà:
– Thật sao, cậu lại nói người đờn bà ấy chẳng lạ với mụ; ai mà không xa lạ? Thật sao cậu lại nói người đờn bà ấy chẳng phải ở đâu xa mụ muốn có bao giờ cũng có ai đó mà sẵn gọi là người ở gần quen mặt với mụ?
Thiếu niên:
– Thưa bà, người đờn bà ấy cũng là cháu của bà, chớ có ai đâu lạ!
Lão bà:
– Phải là vợ của cậu chăng?
Thiếu niên:
– Thưa bà, cháu chưa có vợ. Hẳn thật người đờn bà ấy là cháu đây.
Lão bà nghe dứt, trơ mắt ngó vị thiếu niên một cách sững sờ, trí lấy làm lạ, dường có chỗ nghĩ: Bộ cậu này tư lự thất tình sao chớ! Bởi vậy, trong cái cách ngó mà lấy làm lạ của bà, như hỏi vị thiếu niên cớ sao lại có điều phi thường đến thế. Cho nên vị thiếu niên hiểu ý, không đợi hỏi bèn tiếp:
– Thật vậy bà, cháu đây là người đờn bà nói đó. Vì quân lịnh nghiêm cấm, nam nhân không đặng lộn vào; cháu nghĩ, phận cháu đi buôn đã gặp chầu, không nỡ bỏ qua cơ hội. Bỏ một chỗ nầy, bán mười nơi không bì kịp. Nghĩ vậy nên cháu tiếc, quyết mưu vào cho đặng cấm cung, cháu mới mua đồ đạc sửa sang, đủ mọi món cải trang phụ nữ. Cháu có đem đủ hết theo đây; thật cháu bận vào coi in hịch đờn bà; nếu bà chẳng tin, xin bà đợi nội trong giây phút bà coi, cháu tưởng dầu mắt thánh cũng khôn tường chơn giả, nữa bà!
Lão bà nghe qua lấy làm ngạt ngào cạn xét rất hải hùng cha chả! Bà thầm nghĩ: “Cậu nầy tận số rồi sao mới khiến bày điều chơi ác, đã vậy lại còn muốn di họa cho mụ, không cho mụ thêm tuổi chết già; nếu mụ lỡ dại nghe lời, thác rồi biết ăn năn sao kịp!”
Thầm nghĩ vậy rồi, mụ xây lại nói cùng vị thiếu niên rằng:
– Thôi đi cậu! Con mắt người là ngọc dễ gì, làm những điều bưng mắt bắt chim; vả lại người ở đây thuở nay cậu phải biết, nghe Hồ gia ai chẳng khiếp oai, cậu đừng có lấp lửng, dễ ngươi tới đặt bày nhiều chuyện. Mụ tưởng như cậu, mắt chẳng thấy lẽ nào không nghe tiếng, trong lúc khởi nghĩa đạp đổ nhà Thanh, tay gươm đàng nửa kiền dựng nên; nếu mà mụ nghe theo lời cậu, trớ trêu không xét phận giữ gìn, nào có khác đem mình vào hổ huyệt. Bấy giờ đây, dầu bưng kín, không hở cho ai biết, lâu rồi chắc sao cũng đổ bể ra, ắt mụ già phải mạng cai; chuyện éo le khuyên chớ đặt bày, mựa cắc cớ bắt trai giả gái!
Thiếu niên:
– Không sao đâu bà! Để cháu vào trong cải trang trong giây phú rồi cháu ra cho bà coi. Như bà coi đặng thì dắt cháu đi, bằng coi không đặng thì thôi, có sao bà ngại. Mà cháu dám tưởng, nếu không nói trước cho bà biết, chừng cháu cải trang rồi bà thấy cũng khó mà nhìn ra là cháu lắm bà!
Nói rồi, vị thiếu niên xách gói đi vào trong lo việc cải trang; lão bà thấy vậy mỉm cười, rồi cũng bỏ qua, lo làm công chuyện. Cách mười phút đồng hồ, lão bà đang hái dâu trước sân, chợt thấy một người đờn bà ngoài ngõ đi vào, nết na dịu dàng hình dung tươi tắn. Lại xem chẳng biết ai, lão bà mới ngừng tay, đứng ngó thầm khen: Nét xuân sang gương thu thủy. Thật là thiên kiều bá mị, vạn chưởng phong lưu; lão bà thầm khen vậy rồi, vừa muốn chép miệng tiếp chào thì thấy người đờn bà ấy cười, dường quen, mà lão bà cũng chưa nhìn biết đặng. Chừng người đờn bà ấy cất tiếng nói ra, hỏi:
– Bà làm chi đó vậy bà?
Lão bà nghe tiếng mới nhìn biết và nói:
– Cậu thật khéo thì thôi đa! Vậy mà mụ lại lầm tưởng người ở cung nào lạc bước tới nhà của mụ. Phải cậu không lên tiếng thì mụ đã lật đật tiếp chào hỏi rồi!
Thiếu niên:
– Ra vào mấy bữa đã quen, mà cháu cải trang đến đỗi bà nhìn không biết, thì còn tưởng ai là mà soi thấu nổi. Như vậy, bà có khứng dắt cháu vào tới dinh Hồ phu nhơn chăng?
Lão bà:
– Đặng chớ! Rất đỗi mụ quen biết mà mụ thấy còn phải lầm thay, huống hồ chi người lạ; mụ há còn sợ ai soi thấu mà không khứng dắt. Bie1t vậy mà cũng cìn ngại một điều, cho nên mụ bán tín bán nghi, lưỡng nan tấn thối đó cậu.
Thiếu niên:
– Thưa bà, bà còn ngại điều chi; xin bà ra ơn chỉ bảo.
Lão bà:
– Đã là bà cháu. Mụ cũng chẳng giấu chi cậu; điều mà mụ còn ngại lòng, là điều nầy: Dắt cậu vào đến dinh thì đặng rồi, e khi dẫn kiến tới trước mặt Hồ phu nhơn, cậu …
Nói tới đây mụ ngập ngừng, mắt thì liếc ngó vị thiếu niên, miệng lại cười duyên dường như kiêu hãnh. Vị thiếu niên thấy vậy, mặt có sắc thẹn đôi má ửng điều; song cũng lợt lạt, nói cười cho qua mà hỏ:
– Thưa bà, chẳng hay là bà e nỗi chi, xin bà nói luôn, kẻo cháu nghi lòng tội nghiệp.
Lão bà:
– Nếu mụ biết trước lời mụ nói ra không để phiền lòng cậu, thì mụ sẽ nói mụ luống e, tới trước mặt lịnh phu nhơn, cậu ló đuôi ra mang khổ!
Thiếu niên:
– Thưa bà, bà quên rồi? Từ các mạng đạp đổ nhà Thanh, dựng nghiệp Trung Huê Dân Quốc, cháu cũng như dân cách mạng trong nước, cháu đã …
Lão bà:
– Không! Không phải cái đó!
Thiếu niên:
– Thưa bà, nếu chẳng phải cái đó thì cháu đây còn cái nào.
Lão bà:
– Có chớ sao không! Mụ nói sợ khi tới trước mặt Hồ phu nhơn, cậu ló đuôi, là ý mụ nói: Mụ đem cậu tới trước mặt Hồ phu nhơn mà dẫn kiến, dối rằng cậu là cháu gái của mụ, tay bán ngọc ở Quế Châu; Hồ phu nhơn thấy cậu nết na đầm thắm, nhan sắc mặn mà, tin thật là chị em bạn gái với nhau, chi cho khỏi bà mời vào, gạn hỏi trước sau cho biết. bà hỏi đến, không lý cậu dám vô lễ mà không thưa, hay là giả tai điếc mặt ngơ cho đặng. Làm gì cậu cũng phải trả lời. Mà hễ cậu mà mở miệng trả lời, bà nghe tiếng ắt là biết. Té ra giấu đầu lòi đuôi đó.
Thiếu niên:
– Nghe thì nghe, chớ có lý nào Hồ phu nhơn lại biết.
Lão bà:
– Làm sao không! Tiếng cậu nói nghe như ghè bể, giọng cậu buông như giọng vịt xiêm, ai nghe qua chẳng thấu nỗi niềm, dầu không dạ kiếm tìm cũng hẳn. Mà hễ, Hồ phu nhơn rõ đặng thì còn chi giấu nhẹm cơ gian; cậu cũng biết cơ bất mật, họa thiên phát, cho nên cớ gian mà lậu ra rồi, thì cậu với mụ, biết chối sao cho khỏi tội cải trang, cậu ôi, rủi mà đổ bể ra như vậy rồi, còn kể chi, bà cháu ắt pháp tràng thọ tử, đó cậu!
Thiếu niên:
– Thưa bà, lý đâu ra đến đỗi mà bà phải nặng lo cho nhọc! Cháu mà học cải trang phụ nữ cho hệch như vầy đây, chẳng phải học một ngày một buổi mà đặng. Không nói bà cũng biết rằng cháu chí công mài sắt mới nên kim. Tục ví rằng: Có khôn thì có ngoan; lã nào cháu học đặng cải trang, lại chẳng học cho hoàn toàn, để đến chuyện phải mang tai họa! Cháu học cải trang đặng rồi, cháu học từ tiếng nói giọng cười, học cho tới tướng đi nết đứng. Tiếng cháu nói ra người trong nhà nghe còn phải lầm, huống lựa người ngoài đường thấu sao cho nổi. Vậy mà cah1u hãy còn e chưa tận thiện; cháu dám quên danh phận, quên sự nghiệp mà theo gánh hát bên Nam Kinh; theo trọn ba năm, cháu đóng ròng một vai đào, khi thì Lưu Kim Đính, khi thì Mộc Quế Anh, khi Thoại Ba, khi Hồng Ngọc. Cháu làm đào nổi danh tại Nam Kinh, sau có qua hát tại Xãng Xèn mấy đêm, cháu đóng vai Nguyệt Anh Cô, ai xem đến cũng đều khen ngợi. Bởi vậy người tỉnh ấy mới đặt hiệu riêng cho cháu là “Ảnh Ngọc”. Xin bà chớ ngại; tiếng nói giọng cười, tướng đi nết đứng của cháu, không ai soi thấu nổi đâu.
Lão bà:
– Cậu nói vậy chớ lẽ nào không soi thấu. Tiếng đờn ông với tiếng đờn bà khác nhau xa lắm mà! Như cậu có quyết hẳn rằng cậu giả tiếng như giả hình, ai thấy cũng lầm, ai nghe cũng tưởng, thì thôi, để mụ thử coi. Mụ giả làm Hồ phu nhơn, cậu làm người đờn bà bán ngọc, hai đàng cùng nhau nói chuyện hệch tiếng đờn bà, thì mụ mới dám đởm đương dẫn kiến cho.
Thiếu niên:
– Thưa bà, bà muốn thử thế nào cháu cũng cúi đầu vâng dạ; miễn mà mở tất dạ thương chiếu cố.
Lão bà:
– Mụ giả Hồ phu nhơn hỏi cháu đây: “Chẳng hay hiền nương là người ở tỉnh nào đến đây mà bán ngọc?”
Người bán ngọc:
– Bẩm lịnh phu nhơn, tiện thiếp quê ở Quế Châu, dõi nghiệp chồng, dạo khắp gian hồ mua châu bán ngọc.
Hồ phu nhơn:
– Nói vậy hiền nương chẳng may sớm đã mất chồng, phòng không thủ tiết; chẳng hay hiền nương năm nay niên kỷ đặng bao nhiêu?
Người bán ngọc:
– Bẩm lịnh phu nhơn, tiện thiếp năm nay ba tám có dư, góa chồng thuở tuổi lên mười chín.
Lão bà hỏi thử mấy điều, nghe đáp tiếng thanh tao, hệch giọng đờn bà, thì lấy làm lạ hết sức. Lão bà ngó vị thiếu niên mà cười và nói rằng:
– Cải trang đặng vậy, thật mụ khá khen lắm đó. Nếu mụ không biết trước, thì mụ không làm gì rõ thấu cơ gian cho đặng. Cậu định bữa nào theo mụ vào dinh?
Thiếu niên:
– Thưa bà, vì cháu gấp sang tỉnh khác, nên cháu muốn xin bà, nội buổi chiều nay, dẫn giùm cháu vào dinh bán ngọc.
Lão bà:
– Cậu muốn vậy cũng xong. Vậy thì cậu ở đây nghỉ ngơi, để mụ lo cuối dưa ba miếng đỡ lòng, xế lại, bà cháu sẽ đề huề tới cửa.
Xế lại, lão bà dắt người bán ngọc vào. Khi tới cửa lão bà cậy tên quân canh vào bẩm lịnh phu nhơn, rằng lão bà có dẫn theo một người đờn bà bán ngọc gởi xin ra mắt. Đứng đợi giây phút quân canh trở ra nói lịnh phu nhơn cho vào.
Bà cháu cả mầng, lật đật bước qua khỏi cửa. Vào đến dinh, lão bà để người bàn ngọc ngồi ngoài đợi, lão bà đi thẳng vào trong, ra mắt lịnh phu nhơn mà vấn an, rồi bẩm hết sự mình dắt cháu vào dinh bán ngọc.
Hồ phu nhơn nghe nói có người bán ngọc, lấy làm vui lòng mà cho vào; vì nhà giàu sang, Hồ phu nhơn có ý muốn mua sắm châu báu đã lâu, mà không có khi nào gặp dịp. Hồ phu nhơn liền dạy lão bà dẫn người bán ngọc vào đến phòng khách ngồi đợi.
Giây phút Hồ phu nhơn bước ra. Người bán ngọc lật đật đứng dậy thi lễ. Hồ phu nhơn thấy người đờn bà bán ngọc, tuy chẳng phải mặt quốc sắc thiên hương, ngư trầm nhạn lạc, chớ cũng là tay xinh lịch trên đời, mày liễu, mặt hoa, môi son má phấn. Đã vậy lại cón thêm nết na đằm thắm, đi đứng dịu dàng; nên Hồ phu nhơn thầm khen, lại cũng có lòng kiêng nể; chẳng dám xem như một người buôn bán tầm thường.
Còn người đờn bà bán ngọc, thấy Hồ phu nhơn thì lòng mầng khấp khởi, mắt tuông đôi giọt chan hòa thiệt là mầng biết lấy chi cân, mầng tợ cửu hạng phùng cam võ. Hồ phu nhơn bảo đem ngọc lại coi một hồi, lựa không đặng hột nào, nên không khứng mua; song e để tiếng chê bai mà phiền lòng người chăng nên Hồ phu nhơn kiếm lời giã lã cùng người bán ngọc rằng:
– Không mấy khi hiền nương tìm đến ta, lại hiền nương là cháu của lão bà là người tới lui quen thuộc, lẽ gì ta muốn mua giùm cho vài cặp, song ngặt quá, ngọc lựa không đặng cặp nào; biết sao! Vậy hiền nương hãy chịu phiền đem về để bán cho người ta; chừng nào hiền nương có qua đây nữa, có ngọc tốt, sẽ đem vào cho ta lựa. Ý ta mua ngọc chẳng phải như ai, ta không nài giá cả thấp cao, miễn là ngọc tốt, giá nào mua cũng đặng.
Người bán ngọc nghe dứt mấy lời liền đáp:
– Bẩm lịnh bà, kẻ tiện tì đi bán bữa nay chẳng quyết vào đặng dinh bà, nên không có đem ngọc tốt; chớ trong bận ngọc của tiện tì đi bán đây, ngọc tốt chẳng thiếu gì; có một cặp ngọc, bà tổng trấn tỉnh Giang Tây trả ba muôn, tiện tì chưa dứt giá. Lỡ bữa nay không có, xin lịnh bà mở lòng hạ cô cho tiện tì về, nội này mai tiện tì đem ngọc tốt đến đây, dưng để lịnh bà chọn lựa; song tiên tì có một điều ngăn trở. Bẩm xin lịnh bà khả dung: LÀ một lần vào cung cấp khó lòng, nên không dám đến. Chớ chi lịnh bà truyền cho đội quân canh cửa, mỗi khi thấy kẻ tiện tì đến, cho ra vào thong thả như thường; đặng vậy tiện tì mới là dám tới lui, bằng chẳng, bị chờ đợi mà ngã lòng, vì có khi đợi buổi nầy hết sang buổi kia, đợi mãi mà không vào thấu dinh lịnh bà, quá ngặt.
Hồ phu nhơn:
– Không sao đâu! Hiền nương có muốn vậy để ta truyền dạy đội quân; tưởng như ai thì không đặng ra vào, chi như hiền nương, cháu của lão bà, lòng ta không ngại.
Nói rồi, người bán ngọc đứng dậy cùng lão bà từ tạ lui ra; Hồ phu nhơn đưa ra tới thềm kêu đội quân canh, dặn để cho người bán ngọc ra vào thong thả. Người bán ngọc cảm ơn bà bước ra, hẹn nội ngày mai, sao cũng có ngọc tốt đem đến cho bà lựa. Hồ phu nhơn vào dinh; lão bà cùng người bán ngọc ra cửa.
Người bán ngọc mầng lòng, cảm ơn lão bà mà rằng:
– Nếu chẳng nhờ bà tiến dẫn, cháu biết sao vào thấu tới dinh, thật ơn bà rất nặng dường lấy chi đền cho phỉ. Vậy cháu xin biếu bà một hột ngọc, bà đeo để làm tin.
Nói vừa dứt đã thấy đến nhà, hai người vào rồi, người bán ngọc lấy ra một hột ngọc, trao cho lão bà mà rằng:
– Công ơn bà, cháu chẳng hề quên, chẳng phải một vật mọn cháu trao để làm tin mà gọi đủ. Bao giờ cháu cũng tới lui thăm viếng bà, và quyết nuôi bà trọn đời mà đền đáp. Ngày mai đây, vì cháu đã có xin lịnh phu nhơn cho phép ra vào thong thả, nên bà chẳng cần phải nhọc công dắt cháu tới lui; bà để cháu vào dinh một mình, bán đặng cùng không, cháu ra về sẽ ghé cho bà biết.
Lão bà từ chối mấy phen không đặng, phải ép lòng lấy ngọc cầm tay; lão bà nói:
– Công mụ chẳng có gì, cậu đền ơn quá trọng. Vì sự ra vào trong dinh, tự ý cậu muốn đi một mình, hay là muốn mụ dẫn đi cũng tốt. Bao giờ mụ cũng sẵn sàng. Ngày mai, như cậu có đi một mình, khá giữ gìn cẩn thận. Bán đặng không cũng ghé lại đây cơm nước rồi sẽ về.
Nói rồi, vị thiếu niên từ giã lão bà xách gói ra về, lão bà theo đưa khỏi cửa.
Vị thiếu niên ra về thầm nghĩ, lúc gặp Hồ phu nhơn, lấy làm đắc chí vô cùng, phỉ dạ ước ao, đêm này hoài vọng. Cũng bởi khi Hồ phu nhơn bước ra khách phòng lựa ngọc. Hồ phu nhơn nào rõ cơ gian, những tưởng người bán ngọc cũng là phụ nữ như mình, nên không ái ngại, nói cười vui vẻ, để cho kẻ cận người kề; Hồ phu nhơn thật là vô tình, lòng không tư niệm.
Còn người bán ngọc lại là người có ý, quyết mưu gian cho thấy mặt giai nhân; cớ ấy nên, khi thấy mặt lòng mầng mầng mà sợ nên lòng hồi hộp. Cho nên đến lúc cúi đầu thi lễ, đôi mặt đôi giọt lệ chứa chan, nhưng luống sợ mưu gian kia lậu. Bởi vậy, thương mà sợ, sợ nên phải giấu, không dám cho tấm tình thương lộ thấu ra ngoài; trời đất ôi, khiến chi người dan díu đeo dai, mang nặng gánh tình hoài dạ ái!
Về đến trú phòng, cơm nước xong, vị thiếu niên chẳng chịu dạo chơi như mọi bữa; chàng nhứt định vào phòng nghỉ ngơi cho khỏe, đặng sáng ngày có đi; dè đâu, lúc chưa gặp Hồ phu nhơn thì tư tư thiết thiết, mơ bóng tưởng hình, thổn thức canh chầy, không an giấc nhấp.
Nay thấy mặt người yêu rồi, lòng lại mầng khấp khởi, bỏ những lúc ước ao, năm canh cũng luống ra vào, bàn tính những mưu sâu kế độc. Đi lại cũng ôm lòng trằn trọc, mong sao cho tơ tóc vấn se, cho hay gánh tương tư thật quá nặng nề, trông đợi tơ như Nghê trông Thoại!
Sáng nay, vị thiếu niên đã lo sắm sửa sẵn gói, xách lên xe đi riết tới nhà lão bà; song chàng chẳng gấp vào dinh, cứ việc ở tại nhà lão bà cơm nước nghỉ ngơi, đợi cho tới xế qua; chàng mới sắm sửa cải trang, xách gói vào dinh bán ngọc.
Bận này chàng tới một mình, không cậy lão bà dắt đi, biết rằng có lịnh Hồ phu nhơn truyền, quân canh không ngăn cản. Mà thật vậy, tới cửa dinh, quân canh biết mặt, hỏi sơ sài rồi cho vào. Người bán ngọc sấn vào tới dinh, cậy thế nữ gởi xin ra mắt.
Hồ phu nhơn nghe có người bán ngọc đến thì lấy làm vui lòng lắm, lại tin như người trong dinh; nên chẳng để cho người bán ngọc phải chờ đợi một phút nào cho cực lòng, bà lật đật cho vào mà cũng chẳng cho vào phòng khách như bữa qua, bà cho vào nhà trong như người thân thích.
Vào tới nhà trong, người bán ngọc thấy Hồ phu nhơn đang đứng chờ, phơi phở tấc lòng, cúi đầu thi lễ, Hồ phu nhơn hỏi:
– Sao nay hiền nương vào dinh có trễ lắm vậy, e rấp tối mà lựa coi không kịp lắm chăng?
Người bán ngọc cúi đầu thi lễ rồi còn đang trộm liếc dong quang, xảy nghe hỏi đến giựt mình, bụng hồi hộp nửa mầng nửa sợ. Bởi vậy người đáp nghe nói hơi lập cập rằng:
– Bẩm lịnh phu nhơn, tiện tì chẳng hề dám để cho lịnh phu nhơn nhọc dạ đợi trông, cho nên, lúc trời mới bình minh, tiện tì đã sửa gói vào dinh, quyết ra mặt lịnh phu nhơn sớm lắm. Nhưng bởi đường sá cũng xa một thì, lại thêm cuộc buôn bán không thường; mảng có ghé nhiều nơi mà ra trễ bước đường, xin mở tấc loàng thương mựa chấp!
Hồ phu nhơn:
– Không, ta có chấp nhứt chi đâu; song ta luống ngại, trời rấp tối tới rồi, muốn chôn ngọc khó mà lựa chọn.
Người bán ngọc:
– Bẩm lịnh phu nhơn chớ nghi. Tiện tì mà vào thấu cấm dinh thật lòng mầng quá sức. Tiện tì muốn có ngọc tốt dâng cho vừa lòng lịnh phu nhơn, đặng lịnh phu nhơn tin và thương, cho dễ ra vào buôn bán; tiện tì dại gì dám làm chuyện phỉnh phờ cho mất lòng tin cậy sao. Xin lịnh phu nhơn hãy tin rằng ngọc nào mà tiện tì dưng để lịnh phu nhơn xem, đều là ngọc tốt.
Hồ phu nhơn:
– Buôn bán vậy mới rành nghề, chuốt ngọt nghe sắc lẻm.
Người bán ngọc đặng Hồ phu nhơn khen lại càng mầng hơn, song cũng gượng khi nói khiêm nhượng rằng:
– Tiện tì mô dám chuốt ngót mà phỉnh lịnh phu nhơn. Đây tiện tì xin dưng trước hai hột ngọc vô giá để lịnh phu nhơn xem tường rồi sao sẽ dưng thêm ngọc khác.
Hồ phu nhơn:
– Hai hột ngọc nầy hiền nương định giá mấy mươi?
Người bán ngọc:
– Bẩm lịnh phu nhơn, dã rằng vô giá, thì còn biết tính mấy mươi; hễ ngọc kia số ở tay người, người yêu ngọc mấy mươi cũng đặng.
Hồ phu nhơn:
– Buôn bán mà nói sao nghe dễ lắm vậy hiền nương? Sức hiền nương dám cho ta hai hột này chăng?
Người bán ngọc:
– Bẩm lịnh phu nhơn khó có nơi, mà dễ cũng theo chỗ, chớ phải dễ với mọi người sao. Từ tiện tì có phước mà vào đặng tới dinh ra mắt lịnh phu nhơn, tiện tì dòm thấy tánh hạnh từ hòa, khoan hồng đại độ của lịnh phu nhơn, đối với tiện tì, thì tiện tì đem lòng yêu mến quá. Ước lịnh phu nhơn bảo tiện tì dưng hết ngọc cho lịnh phu nhơn, rồi ở đây hầu hạ sớm khuya, tiện tì cũng vui lòng vưng dạy; chẳng lựa thứ một hai hột ngọc giá có là bao mà tiện tì chẳng dám cho, lịnh phu nhơn phải thử.
Hồ phu nhơn:
– Hiền nương có lòng tưởng ta, ta giã ơn cho đó. Hiền nương còn có ngọc nào tốt nữa không?
Người bán ngọc:
– Bẩm còn thiếu chi, ngọc đem bán biết số nào mà kể; song muốn lựa rút ngọc tốt cho lịnh phu nhơn xem cho đẹp mắt, thì tiện tì chọn lại còn chừng vài mươi, xỏ làm một xâu đây, để chờ lịnh phu nhơn xem tới.
Nói rồi người bán ngọc đứng dậy, hai tay cầm xâu ngọc dưng lên; Hồ phu nhơn vừa với tay tới lấy cầm coi, không phải cầm vô ý mà bỗng không ngọc đổ xòa, hột văng tứ táng. Hồ phu nhơn giựt mình, chụp lại, mà chụp sao cho kịp. Bấy giờ Hồ phu nhơn có sắc thẹn, đứng thơ mắt ngó trân trân; đâu rõ là chước quỷ mưu thần, người bán ngọc làm đổ ngọc đặng gần người ngọc.
Mà thật đó là kế của vị thiếu niên, đó chúc. Khi nghe lão bà nói dinh Hồ đô đốc quân lịnh rất nghiêm, mũi kim qua không lọt, thì đã ngụ ý hỏi thử lão bà: “Ước có người đờn bà muốn vào dinh bán ngọc, bà có dắt vào tiến dẫn đặng chăng?”
Lão bà vô ý miệng lỡ rồi, thì vị thiếu niên ra về, trọng đêm liệu kế. Ngoài cái mưu cải trang phụ nữ mà vào dinh kia, vị thiếu niên còn toan làm làm sao tối ở lại trong dinh cho đặng. Chàng mới tính lựa ngọc tốt xỏ xâu; xỏ xâu rồi cột một đầu, thả một đầu, để khi Hồ phu nhơn hỏi ngọc đưa ra; hễ vô ý cầm thế nào cũng sút.
Mà hễ ngọc sút mối đổ xỏa, văng tứ tán, lượm bao giờ cho đủ! Thiễm lại lựa lúc gần tối mới vào dinh mà đưa. Hồ phu nhơn tình ngay, lý nào ngọc lượm chưa đủ, lại để cho người ra về, không cầm ở lại trong dinh sáng ngày tìm kiếm, nghĩ kế thật rất sâu.
Bởi vậy khi Hồ phu nhơn chưng hửng, trân trân đứng ngó, thì người bán ngọc ngồi xuống và lượm ngọc và nói:
– Bẩm lịnh bà, không sao đâu. Lịnh bà hay an lòng, để mặc tiện tì lượm lại.
Đặng lời như mở tấc lòng; Hồ phu nhơn mới vui, bèn kêu đoàn thế nữ trong dinh mà cấm tuyệt vào ra, rồi cũng ngồi xuống lượm cùng người bán ngọc.
Trong lúc hai đàng cùng nhau ngồi kề lượm ngọc đây, thì có ai? Ngoài mấy con thế nữ, thì còn có ai dám lộn vào tới phòng này?
Mà bởi khi sút nối dây, đổ ngọc xuống đất rồi, thì Hồ phu nhơn muốn để từ nhiên vậy mà kiếm lượm cho dễ, chẳng để cho ai vào ra lộn xộn mà khó tìm, nên đã cấm hết đoàn thế nữ vào ra, thì còn có ai đâu nữa. Ngó quanh ngó quất cũng một mình Hồ phu nhơn với người bán ngọc.
Mà Hồ phu nhơn vô tình, đã tin thiệt rằng người bán ngọc là phụ nữ như mình, thì còn e chi chớ! Biết tự nhận lỗi mình, tại mình vô ý mà ngọc đổ xỏa xuống đất, làm cho người phải thất công ngồi lượm, mà chưa tường lượm lại đủ chăng, nên trong cơn ngồi lượm, Hồ phu nhơn lấy những cam ngôn mĩ từ, tỏ loàng than tiếc. Không quả sự kề vai cạ vế, chí nài cười nói lả lơi; còn người bán ngọc, mấy khi mà đặng kề người ngọc cho phỉ dạ ước ao như vẫy, nên lắm lúc mầng mầng sợ sợ, nghĩ biết bao mà kể sự tình. Bởi vậy, tuy cũng ngồi vậy chớ, xác còn đây mà hồn phách ở đâu, tay thì lượm ngọc, mà trí những toan trộm ngọc.
Mong tính những đem tơ chờ kết tóc, dạ thầm toan kế độc mưu sâu; cơ khổ thì thôi, ngồi với trắng mà ngỡ những đâu, nên, khi thì cười rộ, khi lại cúi đầu dựa gối. Động vì sắc, muốn tỏ tình thương vội, mà còn e lắm nỗi khó lòng, cớ ấy nên trăm mối tình cất để nằm trong cứ ngồi lấy mắt mà ngó, như kẻ khát, đứng cầm gáo mà trông quá ngặt.
Hai người ngồi kề nhau, và kiếm và lượm và nói cười với nhau cho tới tối, đèn nhà nổi ngọn đã lâu, mà lượm không hay hết. Vì, Hồ phu nhơn thì vô tình, trông lượm cho mau rồi, đặng có mời vào cơm nước, nên thường hay kêu hỏi: đủ chưa? Còn người bán ngọc lại có ý muốn để dây dưa đặng kề vai cạ vế; nên hỏi tới thì cứ đáp rằng: chưa đủ.
Kiếm cho tới khuya, bươi móc tới hóc hẻm mà không còn hột nào; mà Hồ phu nhơn hỏi, thì người bán ngọc cứ bẩm rằng còn thiếu đâu vài hột. Hồ phu nhơn nói:
– Bây giờ đã khuya không lý ngồi đây kiếm mãi. Vậy thôi, đâu còn có đó, để chờ tới sáng sẽ hay; hiền nương hãy ở lại đây, cơm nước nghỉ ngơi, đàm đạo mà chơi, đặng coi chừng luôn thể. Ta cấm tuyệt thế nữa ra vào. Bao giờ sáng ngày, kiếm lại không đủ xâu, ta sẽ thường bồi y giá.
Người bán ngọc nghe nói trúng ý mình, thì lấy làm phới phỡ tấc lòng; song, không lý chịu liền, nên còn gượng mở hơi từ chối. Người bán ngọc chẳng lấy lẽ gì khác hơn là đây là nhà quan, quân lịnh nghiêm, e ở lại khó lòng; nên xin để ra về, rạng ngày trở lại. Hồ phu nhơn không cho, đáp rằng:
– Hiền nương mà về, nếu rủi mai vào kiếm lại không đặng, thì hiền nương mới biết nghi ai. Chi bằng hiền nương ở lại đây, mai dầu còn mất lẽ nào, hiền nương cùng biết mà minh ra đặng. Không sao đâu; có lịnh ta cho, thì thôi, không ai dám hỏi chi tới hiền nương mà sợ; hiền nương mựa chối từ, ta không bằng bụng.
Đặng lời, người bán ngọc mầng biết bao; nghe Hồ phu nhơn ép biểu mựa đừng chối từ, lại càng hoan tâm bất tận.
Bây giờ, Hồ phu nhơn mới mời vào phòng trong dùng cơm. Người bán ngọc theo chơn Hồ phu nhơn, bước vào, thấy căn phòng, nghi tiết đẹp đẽ, chưng dọn trang hoàng, bên tay mặt có để một cái giường ruột gà, gối diệu niệm êm, mùng mền tinh sạch. Vào khỏi cửa phòng, đứng xây mặt lại ngó ngay cái giường, lại còn thấy, bên tả thì bàn rửa mặt, bên hữu thì ghế xích đu, dưới chơn thì gạch bông, trên đầu thì quạt máy. Dầu thơm bay nặc mũi, thơm như mùi “phá xủi”, “Coty”, nghĩ cho mình không lạc đàng đi, cớ sao lại, sấn mình chốn thiên thai bồng đảo!
Xây lại phía sau lưng, thấy phòng ăn rực rỡ, nghĩ mầng mầng sợ sợ biết bao; nghĩ cho thân ong bướm lộn vào, nút có đặng nhụy đào cùng chăng.
Hồ phu nhơn mời ngồi.
Bàn dọn hai người ăn, để ngồi ngang nhau, sắp sẵn hai cái khăn thêu, hai đôi đũa ngà, hai cái chén ngọc. Ngoài ra còn có hai cái ly thủy tinh, giữa có nhạo rượu cúc. Hồ phu nhơn mời ngồi rồi vói tay cầm lấy nhạo rớt rượu ép người bán ngọc uống; giây phút, thế nữ bưng lên một mâm, sắp đầy những đồ cao lương, mỹ vị, hải vị, sơn trân, Hồ phu nhơn ép ăn; người bán ngọc ngồi nhìn, bộ coi lơ láo.
Sự ngồi nhìn, mặt coi lơ láo đây chẳng bởi thấy nhà giàu sang mà khớp, hay vì cuộc đãi đằng trọng hậu mà e người bán ngọc ngồi mà chấm chút có chừng, không uống không ăn cho thỏa, là bởi có một cớ: Chỗ ước mơ thành nguyện, dạ mầng như bàng điểu ngộ lam phong; nghĩ còn có chi khoái hơn là ước bấy lâu nay phỉ một tấm lòng, mong chi nữa mà không nhìn rõ ngọc. Ngồi chấm chút mà trộm liếc cũng đủ no, chẳng lựa đến điều ăn uống. Có khi ngồi ngó không nháy mắt, mê mẩn mà quên lững sự đời; Hồ phu nhơn xem thấy mỉm cười, song cũng chẳng nghi, nên hỏi:
– Nghĩ chi đó mà sững người như thế?
Hỏi rồi, Hồ phu nhơn lại tưởng cho người bán ngọc lạ lùng nên bợ ngợ, mới gắp những món này món kia bỏ qua chén ăn; Hồ phu nhơn lại còn, muốn cho người bán ngọc hết e mới bày chuyện nói cười vui vẻ.
Hồ phu nhơn hỏi:
– Chẳng hay hiền nương năm nay niên kỷ là bao; có chồng hồi nào; cùng nhau ở tới năm nào, gãy gánh?
Người bán ngọc:
– Bẩm lịnh phu nhơn, niên kỷ tôi mới vừa ba tám; thuở ấy, cha mẹ còn song toàn, có để nguyền ước sơ giao cùng nhà họ Tô tự là Đông Pha cũng bực tài bà trong tỉnh. Tiện thiếp khi lớn lên, tuổi mới nên mười ba, chẳng may mẹ cha sớm mất để lại cho tiện thiếp sự nghiệp ước năm muôn; bởi tiện thiếp còn nhỏ dại, chưa rõ phận đi gì, phải đeo theo chân chú, mà nhờ ân dìu dắt. Chừng tuổi mới nên mười sáu, nhà họ Tô, mới gởi hồng thiếp qua, mà xin nạp lễ vu qui: vì ước xưa chẳng dám lỗi nghì, cháu phải vâng chịu xướng tùy trọn điệu. Có chồng theo chồng, tưởng đặng cùng nhau kết tóc đến già; không dè, phận chẳng may, khiến ra về nhà chồng mới đặng hai năm, gánh cang thường bỗng không vội gãy; làm cho tiện thiếp phòng không, nệm chịch, chăn lạnh, gối nghiêng, chịu góa bụa từ mười tám tuổi đến giờ, trực tiết thờ chồng, không thay mái tóc.
Hồ phu nhơn:
– Từ ấy những nay, chưa gặp chỗ nào cho vừa, nên hiền nương chưa chịu nối chỉ chấp tơ, chớ hễ gặp phải chỗ rồi, thì có lý nào hiền nương lại chê mà cam thủ tiết đến già, xuân xanh bỏ quá mà chịu thiệt thòi mãi sao?
Người bán ngọc nghe Hồ phu nhơn hỏi dứt lời làm bộ mặt mày đổi sắc, buông đũa đứng dậy chắp tay xá xá Hồ phu nhơn mà đáp cách khẩn khái rằng:
– Xin lịnh phu nhơn chớ nghi! Phận gái mười hai, xét trong tam giang, tứ hải với ngũ hồ, dễ biết đâu đục đâu trong mà chọn lựa. Nếu tiện thiếp giữ tiết thờ chồng, là tại tiện thiếp ngán ngẫm sự tình, nên chẳng chịu nối tơ chấp chỉ đó thôi chớ. Tiện thiếp nán ngẫm vợ chồng cho đến nỗi, tiện thiếp phải dặn lòng.
Một lần mà tởn đến già,
Đừng đi nước mặn mà hà ăn chân.
Nên chẳng may lỡ một rồi thôi, cũng đành.
Bấy chầy khép cửa phòng thu,
Chẳng tu thì cũng như tu mới là.
Nếu có ai thấy cái phận cô quạnh này mà thương, không nệ tiếng vét hương dưới đất, bẻ hoa cuối mùa, mà tính chuyện giữa đường chấp gánh, đem tơ loan xin nối kim lành đi nữa, thì tiện thiếp cũng xin quyết lại một lời.
Ai dầu nghĩ đến gần xa,
Đem tình cầm sắc đổi ra cầm cờ.
Ấy vậy tiện thiếp cúi xin lịnh phu nhơn chớ nghĩ lầm, kén chọn. Lịnh phu nhơn có thuơng tiện thiếp xin lịnh phu nhơn đừng.
Nói chi nối tóc chấp tơ,
Cho buồn cả bụng, thêm nhơ cả đời.
Hồ phu nhơn nghe dứt vùng để đũa xuống cười rè, rồi cầm lấy khăn lau miệng, lau tay và hỏi người bán ngọc rằng:
– Hiền nương có học hay không mà nói lạ lùng vậy? Ta thật mới nghe hiền nương nói lần này là lần thứ nhứt, chớ thuở nay, tức là từ buổi ấu xung còn ở với cha mạ cho đến khi trưởng thành, nghi thất nghi gia, có vợ có chồng, ta chưa từng nghe ai nói lạ lùng như thế.
Người bán ngọc:
– Bẩm lịnh phu nhơn, tuy tiện thiếp chẳng phải con dòng kim chi ngọc diệp, nhà thế phiệt trâm anh như mạng phụ vậy chớ, nhà cha mẹ, buổi sinh thời, cũng có dư ăn dư để, lại tiện thiếp nhờ ân cha mẹ tưng tiu cho ăn đi học, nên lớn lên tiện thiếp cũng biết đặng ít nhiều bút nghiên, đọc trọn thiên nội tắc.
Hồ phu nhơn:
– Thế thì đủ cho hiền nương hiểu biết cuộc vợ chồng là lẽ tạo đoan, nào phải tại lòng người sở định. Hiền nương xem lấy nhân vật ở trước mắt đó mà coi, trời đất tạo nên muôn vật ở đời, có loại nào mà không có thư hùng chăng? Nhỏ hơn hết là lọai trùng đến mà hãy còn có trống mái, lấy tình ái tác thành, để hóa hóa sanh sanh, truyền để đời đời kiếp kiếp thay; huống chi loài người ai lại bặc đàn tình ái. Nói như hiền nương vậy chẳng là nghịch ý trời lắm chăng? Hiền nương phải biết Hóa công dựng nên muôn vật ở đời, tuy chẳng có lời sấm truyền dạy biểu nhân vật rằng trai gái, đực cái, trống mái phải lấy tình ái, hiệp nghĩa phu thê, đặng có sanh con kế hậu, đẻ cháu nối dòng, nhưng mà nhân vật ở đời bị cái dây tình ái buộc ràng, chặt cho đến đỗi, buộc rồi không ai mằng gỡ ra, thì cái dây tình ái ấy là luật tự nhiên sử, nào phải ở lòng người gây nên.
Bởi vậy thánh hiền xưa mới do lẽ trời định mà dạy trai thì tam cang gái thì tam tùng; mà phận trai, trong ba cang ấy, lấy cang thứ ba làm gốc; nên mới có câu: Quân tử tạo đoan hồ phu phụ; còn phận gái, trong ba giềng phải lấy giềng thứ hai làm trọng, nên có câu xuất giá tùng phu; nếu nhân vật ở đời này đều đồng một ý kiến với hiền nương vậy, thì nhân vật phải dứt, có đâu roi truyền.
Thoảng lại một đời người ở trên cõi tạm này, có lúc nào vinh hiển, vui sướng hơn là lúc cầm sắc vầy duyên, phỉ nguyền cá nước. Bởi vậy người đời mới dám lấy câu.
Long vân thiên cổ kỳ phùng,
Loan phụng bách niên túc ước.
Mà chúc cho lưỡng tánh tương phùng nhứt gia Hồ Việt. Nếu chẳng may, cùng nhau không trọn một đời, giữa đàng gãy gánh, người sương phụ, cũng biết nghĩ tình mặn nghĩa nồng, đầu ấp tay gối, mà thệ lòng giữ tiết thờ chống, cho trọn sự tử như sự sanh, sự vong như sự tồn, không chịu thất thân với ai vậy chớ; nhưng bởi tuổi còn non, đường còn dài, e nỗi bặt đường tà dâm, chớ không thể dứt đường tình ái, sợ giữ không trọn mà phải mang tiếng đời, nên sau rồi cũng phải chịu chấp gánh cang thường, nối tơ chấp chỉ; chớ có mấy ai nói như hiền nương ngán ngẫm vợ chồng, gớm ghê tình ái bao giờ.
Người bán ngọc:
– Bẩm lịnh phu nhơn, thật vậy lịnh phu nhơn. Lòng có sao nói vậy, dám đâu phớn phỉnh những lời; thật thì, tiện thiếp không ngán sự đời, mà luống sợ đổi dời chăn gồi. Bẩm lịnh phu nhơn, xưa cũng đã trao tơ lựa mối, phận tề mi lắm nỗi đắng cay; đạo xướng tùy chữ dạ khôn sai, mà tại phận mười hai tráo chác. Tiện thiếp dễ giấu chi lịnh phu nhơn, rủi cho tiện thiếp gặp nhằm ông chồng: Cũng là bực tài ba lỗi lạc, cũng là tay hàng mặt trâm anh; nhưng mà chẳng biết sao, vô tình thay, chẳng biết thương tới phận mong manh, không xót đến chút tình chồng vợ. Nay nhắc lại, tấm lòng còn sợ, nói tới thêm mắc cỡ sượng sùng; lịnh phu nhơn nghĩ đó coi, có lạ chi, thân các đằng nương dựa bóng tùng, nhờ che chở bảo bùng sương tuyết. Chồng của tiện thiếp nghĩ âu quá nghiệt, cách ở ăn xét thiệt gắt gao; mở miệng ra cha mày mẹ tao, có nói lại thì đào thì bới. Tay đã đánh miệng còn mắng chưởi, đày đọa hơn kẻ dưới trong nhà; hễ gặp cơn phiến nộ phong ba, đá cũng nát huống là xuơng thịt.
Đã vậy lại còn thêm: Chơi chẳng kể khi còn khi hết, xài phá không biết tiếc của nhà; ngày thì theo cờ bạc rượu trà, tối lại đắm nguyệt hoa, hoa nguyệt. Nơi trướng súy mặt nào chưa biết, một trận cười không tiếc bạc ngàn, say mê rồi quên nghĩa tào khang, chẳng e miệng thế gian đồn tiếu.
Bẩm lịnh phu nhơn, dường ấy có nát gan bồ liễu, nhưng mà, phận vô đoan phải chịu biết sao, không lý mà tiện thiếp lấy nễ đó, làm đến đều phân áo rẽ bâu, ra mà kén chọn vàng thau nào khác. Chồng dầu có đổi dời tráo chác, mình giữ sao đừng để cho gió tạc bức rèm; gìn cho tròn phận cải duyên kim, mựa sai chạy, lỗi niềm vàng đá. Cũng không lý nghe theo miệng thá, mà nói câu ông chả bà nem; dại chi mà chẳng giữ lấy nền, tốt gì chá tiếng ghen cho nhục. Chồng dẫu lỡ ngày xuân lầm lúc, vợ phải toan lúc thúc trong nhà, tiện thiếp cũng nghĩ, đã rủi sanh ra phận đờn bà, liều một kiếp kinh xoa quần bố.
May đâu, nhà hậu phúc, lòng trời còn độ khiến oan gia nợ ấy trả xong, lang quân lâm bệnh ngặt tảo vong, bỏ tiện thiếp cô phòng từ ấy. Thiếp trực tiết thờ chồng ở vậy, khép phòng thu đã mấy năm trường; chẳng phen người chấp gánh cang thường, không học thói ong chường bướm chán.
Nay nhắc tới nghĩ càng thêm nghĩa nát mà cam chiếc bạn lẻ đôi, thôi đã đành phận bạc như vôi, còn chi chẳng phủi rồi tình ái.
Hồ phu nhơn:
– Hiền nương nói vậy, theo lẽ đời nghe cũng phải, vì lẽ đời hằng buộc người chẳng may gãy gánh, khép phòng thu mà giữ tiết thờ chồng; nhưng mà theo lẽ trời, thì nghịch ý hóa công; vì hóa công đã đặt bày, tình ái ấy là dây oan, dễ mà buộc nghĩa tào khang, gây tình phu phụ. Ít ai ở đời chẳng muốn vui sướng xác thịt mà vội ngơ lấp biển ái với nguồn ân cho đành! Mà nhứt là người góa chồng tuổi trẻ như hiền nương, với ta đây, lại càng khó mà chống cự nổi với cái tình ái là luật tự nhiên, là khối vô hình của Khuôn Linh ung đúc. Bởi khó cho người đời xác phàm mắt thịt cưỡng nổi, cho nên đời mấy ai giữ tiết đặng tròn; lại cũng bởi ít giữ tiết đặng tròn, thờ chồng tới trắng tóc xanh, nên lẽ đời mới phong tặng người giữ đặng trọn là tay Tiết phụ. Hiền nương nói rằng hiền nương có học, có biết đặng ít nhiều bút nghiên, hiền nương nhớ lại coi từ xưa có mấy tay tiết phụ thanh tử danh lưu; hiền nương lấy đó mà xét lấy mình, thì biết hiền nương giữ tấm son có trọn. Ta chỉnh e hiền nương cam phận cô phòng chiếc bóng cho đến khi mái tóc của hiền nương trở nên nửa trắng nửa vàng rồi hiền nương chợt giấc vu san, xót phận lỡ làng, hiền nương mới hối ngộ, ngó lại mình mà coi thì thấy xương mai xỏ mòn, ngày xuân đã lụn; hiền nương dầu có than tiếc cho lắm, cũng không thế đổi đặng cái hoa cuối mùa, nhụy rửa, canh tàn, ong bướm đâu màng tới nữa. Chừng ấy hiền nương dầu có ăn năn, thì cũng muộn rồi.
Người bán ngọc:
– Bẩm lịnh phu nhơn, mấy lời lịnh phu nhơn giải nãy giờ đều là lời ngay lẽ chánh; tưởng cho một người thiếu trí non dại tầm thường học vấn như tiện thiếp đây thẳng dễ gì phản đối. Hẵn thật, tình ái là một cái khối vô ảnh vô hình. Khuôn Linh ung đúc; mạnh như sóng động như gió; mặn hơn muối, ngọt tợ đường; há tướng có mảnh má hồng nào ở đời này cượng cãi cho qua mà dám noi gương Tiết phụ? Thế thì tiện thiếp điên gì mà mất chồng lại phải muốn lấy chồng? Nếu tiện thiếp đành bỏ hết những điều vui sướng xác thịt của loài người ở nơi cõi tạm nầy, nghĩa là phủi sạch hồng trần, lánh xa tình ái, cho dứt rồi oan trái, rảnh thân mắc phải nợ nần, mượn lấy gương tiết phụ soi mình, giữ vẹn cang thường, cho tròn một kiếp, là tại tiện thiếp rõ thấu sự mật nhiệm của hàng tiết phụ xưa, là biết đặng kế mầu, dùng để cản ngăn cái ái tình, ngày đêm đeo đuổi theo hoài, khuya sớm chằn chằn buộc mãi. Nhờ có vậy, tiện thiếp mới chắc mình ở vậy đến già; bằng chẳng, tiện thiếp cũng là thân phận đờn bà, cũng là máu thịt như ai, lý nào lại cự trần bất nhiễm.
Hồ phu nhơn nghe người bán ngọc nói biết đặng ý mầu của người xưa giữ tiết, thì lấy làm lạ hết sức; nên bưng ly rượu đưa lên tới miệng rồi lại ngừng tay, cầm ở đó, trơ mắt ngó người bán ngọc, ý dường một nghi mười giờ; nghi cho lời nói phỉnh phờ, dạ không tin thật. Giây phút, thấy người bán ngọc mặt không đổi sắc, Hồ phu nhơn mới hỏi:
– Chẳng hay kế mầu giữ tiết của người xưa là kế chi, và hiền nương làm sao thấu nổi?
Người bán ngọc:
– Bẩm lịnh phu nhơn, tiện thiếp biết rằng tiện thiếp nói ra mà không giải tất, thì làm gì lịnh phu nhơn cũng không tin, mà lịnh phu nhơn lại còn nghi mà thầm quở tiện thiếp sao dám vô lễ, bày chuyện phỉnh phờ, dễ dui mạng phụ. Vậy tiện thiếp xin giải, lịnh phu nhơn chịu khó ngồi nghe.
Bẩm lịnh phu nhơn, lịnh phu nhơn đã rằng tình ái là khối tự nhiên của tạo hóa đã ung đúc trong lòng nam nữ, thành ra một thứ dây oan trái để mà buộc trói lấy nhau cho thêm khắng khít, nên hễ một dây đã buộc rồi, không ai mằng gỡ đặng, lại thêm sự khắng khít ấy, càng lui tới ra vào, càng quen thuộc nết, thì tình lại càng díu dan, thương yêu tưởng nhớ nhau một phút cũng không nỡ rời nhau; nên hễ hai đàng cùng nhau căn vặn tất lời rồi, thì lìa tử không lìa sanh, mái tóc dầu thay lòng tơ không đổi. Mà nhứt là người nhỏ tuổi, mới có chồng đặng một đôi năm như tiện thiếp đây, tình ái lại càng chứa chan đầy đặn hơn ai hết thảy.
Nếu cuộc ấp yêu lỡ làng vì một cớ nào phải chia cách nhau, để cho người đớn bà phải chịu khuya sớm cô phòng, gối nghiêng nệm chích, thì lại khốn khó cho cái thân phận người đờn bà tuổi trẻ ấy hơn nữa; vì người ấy, còn đang xuân xanh không thể chống trả lại với cái tình ái chan chứa tràn trề kia sức đang mạnh dường như sóng gió thừa dịp đẩy xô dồi dập; nên dầu người xuân xanh gãy gánh ấy có tức nước bể bờ đi nữa, thì cũng là lẽ tự nhiên không đánh trách, chẳng nên chê, vì phận bạc khó nỗi trọn đời thủ tiết.
Bẩm lịnh phu nhơn, về gia đạo, tiện thiếp đã thưa thiệt cùng lịnh phu nhơn rằng buổi tiện thiếp mới xóc áo cài trâm, vưng chịu chữ tùng xuất giá, về cùng chồng đặng mấy trăng, bỗng gặp lúc chẳng may khiến chồng đổi tánh. Ngoài sự đày đọa đánh chửi, chồng thiếp bỏ đạo nhà, thả luốn chơi bời, tối dựa thanh lâu, ngày theo cờ bạc, say mê tửu sắc, say đằm nguyệt hoa, bỏ tiện thiếp hiu quạnh một mình, nệm nghiêng gối chiếc, cô phòng lạnh ngắt, biết cùng ai than thở sự tình; lịnh phu nhơn nghĩ coi, thân gái mới về nhà chồng một đôi trăng, tình nghĩa đang nồng, lửa hương đang đượm; bỗng không mà nguồn ân vội lấp, bể ái cạn giòng, thì không nói lịnh phu nhơn cũng biết, dầu là đào là mận chi chi đi nữa, đào không nắng táp cũng dung mềm, mận chẳng sương teo ủ dột; huống chi phận thiếp. Bẩm lịnh phu nhơn, tiện thiếp cũng thân phận bọt bèo như ai cũng máu chảy, cũng ruột mềm, cũng biết duyên kim phận cải như ai; có lẽ nào tiện thiếp lại không ngả lòng, vì nỗi chích bóng cô phòng, đêm đông lạnh lẽo một mình thắt thẻo, nghĩ thôi chua xót ruột gan năm canh dạ luống bàng hoàng, giọt lệ chảy tràn bâu áo. Tiện thiếp nghĩ đến chồng bạc bẽo chừng nào, tức mình chừng nấy. Tức mình muốn cửa công khống cáo nhưng còn e lỗi đạo tào khang; để vậy thì thiệt phận hồng nhan, một mình chịu năm canh chiết bóng.
May đâu, lối xóm có một vài vị sương phụ tuổi quá nửa đời, thấy tiện thiếp đêm đắp thảm, ngày đeo sầu, vào ra luống mày châu mặt ủ; thấy vậy thương, các bà mới đem những tích xưa truyện cũ, gương báu, kiểu thơm tỏ bày, rồi mượn những lời ngọt tiếng ngon cam ngôn mĩ từ khuyến nhũ, bảo tiện thiếp học đòi các bà mà thủ tiết thờ chồng đừng giận lẫy mựa hờn ghen, gây nỗi tóc tơ rắm rối. Muốn cho tiện thiếp khỏi ngại lòng, các bà lại còn đem chuyện các bà mà thuật lại và dạy tiện thiếp ý nhiệm mầu như vầy:
“Buổi xuân xanh, bề gia đạo của ta có khác gì bề gia đạo của cô mi ngày nay, ta cũng đáo đáo tấc lòng đêm trông ngày đợi. Thương chồng, nhớ chồng, trông chồng, đợi chồng mãi không đặng rồi thì cũng lửa hờn dậy máu ghen trào, ta cũng muốn đá hất cho rồi, ra mà tìm chốn khác, trồng huê lập kiểng.”
Nhờ có một hai người bạc tác, mà cũng là sương phụ như ta mới bày: “Hơi nào mà tư lự thất tình cho uổng; cứ hễ ông ăn chả, thì bà ăn nem, dại gì lại nhịn thèm; chồng nó có chẳng nghĩ tình vợ chồng chia lòng vàng đá, ra đi cười son cợt phấn bẻ mận hái đào, bỏ mình ở nhà vắng vẻ loan phòng nệm nghiêng gối chiếc, thì mình dầu chẳng chơi hoa giỡn nguyệt, sợ thất tiết mà phải mang tiếng đời thì mình cũng dụng kế nào mà giải phá lòng sầu, tìm phương tiện mua vui trong canh vắng chớ dại gì lại để vậy chịu đổ ngọc rơi châu đeo sầu đắp thảm mãi chăng”.
Nghe chị em nói lạ tai, ta mới hỏi phăng tới cho biết làm làm sao giải phá sầu tình, mà không thất tiết; thì các chị lại bảo ta rằng: “Cần chi phải có chồng mới vui, khốn gì phải tư thung với ai mới thỏa; chồng nó có bỏ mình mà riêng vui theo trường súy, mình coi trong chị em bạn gái người nào đẹp đẽ, thích tình, mình đem về làm bạn gối chăn, sớm khuya chung chạ. Lâu ngày rồi quen thuộc nết nhau rồi, thương yêu nhau hơn vợ với chồng, nồng mặn hơn tình với nghĩa. Chừng chị em dan díu nhau,một phút chẳng lìa nhau thì, không những trong trí chẳng còn bận nghĩa tóc tơ, hoài tình cầm sắc hút nào người đen bạc kia thôi, mà có khi lại còn sanh sự ghét vơ không trông gặp gỡ. Thấy nó ló mặt về tới nhà sức ghét muốn đuổi phức nó đi cho khuất mặt!
Chồng không phải nghĩa có cần chi là chồng. Hai người đờn bà làm bạn với nhau tình còn mặn nồng hơn; ở đây tới già cũng đặng. Nhờ vậy người xưa chẳng may gãy gánh giữa đàng, trực tiết thờ chồng mới trọn; bằng chẳng có vậy, xét lại cũng như ai, ai lại tài gì, đang lúc xuân xanh, lấp nỗi nguồn ân biển ái.
Nghe theo lời chị em, lại thêm trong lúc rầu điên, trông có ai biểu đâu làm đó, ta mới chọn một người trong chị em bạn gái, nhan sắc đẹp đẽ, tánh nết hiền lành, đem về ở một nhà chông chạ. Càng lâu càng yêu nhau, tình dao díu hơn tình chồng vợ.
Từ đấy ta chẳng còn thương nhớ chi đến chồng nữa mà phải lóng mơ ước gối chăn, tưởng tơ hoa nguyệt. Nhờ vậy ta mới thủ tiết tới giờ, không mang tiếng nhục. Nếu nay cô mi có gặp cái ca3nt thản ấy, cô mi nghe theo kế mầu của ta mới bày đó mà làm, tự nhiên cô mi giải nỗi sầu tình, lại đặng vui lòng sướng dạ.”
Nghe qua, bẩm lịnh phu nhơn, lúc cùng chẳng đã, cơn túng phải liều, tiện thiếp chết để trong lòng, chờ dịp tốt thi hành thử kế. Làm thử rồi mới hay quả thật như lời, chẳng sai. Tiện thiếp mà giữ vẹn phận mình, trong lúc sắc còn xuân thắm; biếng nghe điều hoa nguyệt, ngơ mắt ngó bướm ong, cũng nhớ, từ sáu bảy năm nay, tiện thiếp bạn cùng Hằng nữa. Chung chạ cùng nhau khuya sớm, vui say trong lúc canh tàn, hoặc là xem hoa nở, hoặc là chờ trăng lên, mê mẫn nét hống nhan biết mấy.
Bởi cớ, chồng phụ rảy mà tiện thiếp an tâm ở vậy, ai có lòng chác quấy mặt ai; chồng dầu ham tửu sắc vui say, tiện thiếp cứ giữa phận ở nhà, tuy cửa đóng then gài cũng thỏa. Chừng trời khiến cây sao vội ngã, đàng nhỡi nhân kia đã lấp rồi; miệng thế thường, ai chảng rằng trầu nọ xa vôi, có kẻ lại nói, vung kia bể, e nồi khó đậy. Tưởng cho thiếp không cam ở đây, vì phong trào xô đẩy khó dằn; mấy ai ngờ thiếp có Ả hằng, vui với thềm Quế cung trăng cũng thỏa. Ấy là kế của các bà sương phụ truyền bày cho tiện thiếp đó.
Bẩm lịnh phu nhơn, theo ý tiện thiếp nghĩ; người lẻ bạn dầu không chặt dạ, sợ loan chông phụng chạ khó lòng; thì cũng nên sắm một tay trong; để vầy bạn cô phòng trực tiết. Vui hơn cuộc đêm thanh giỡn nguyệt, người ngoài ai rõ biết đặng chăng? Chồng cũng không thấu nổi cơ gian, mình lại đặng, khỏi thiệt phận hồng nhan chiết gối!
Hồ phu nhơn nghe người bán ngọc kể hết sự tình, thì lấy làm lạ lắm, song chưa dễ biết đâu chơn đâu giả, đâu thiệt đâu hư mà ngờ, nên xem như tuồng lơ lơ lác láo, ngẩn ngẩn ngơ ngơ tợ người trong mộng, mới vừa chợt tỉnh giấc nồng; nhưng mà ngoài cũng có vẻ mầng vui, tấc lòng phới phở; cười cười nói nói hai mà ửng điều, coi ý người động dạ ấp yêu, nên ngoài cũng có chiều lơi lả. Hồ phu nhơn vói tay lấy nhạo rượu, kêu thế nữ bảo vào phòng chiết thêm cho người bán ngọc một ly, ép uống; rồi từ đây cứ bồi tửu ép người bán ngọc uống mãi; nghĩ vì thuở nay chưa tầng nghe ai bày đặng kế thay giải nỗi tình hoài dạ ái, nay nghe người bán ngọc tỏ vẻ ý mầu, thì bụng Hồ phu nhơn đã thầm mầng quyết học cho đặng để dùng trong cơn một mình chiếc bóng, nương gối tương tư, song Hồ phu nhơn không biết toan mưu nào khác hơn là ép người bán ngọc uống say, đặng mà nhơn dịp rượu vào lời ra, học hỏi cho tường tận.
Người bán ngọc thâm hơi, hiểu thấu ý Hồ phu nhơn, song cũng làm lơ, giả như không hiểu biết, ngồi gượng cười gượng nói mà từ chối rằng sợ uống quá lỡ say; Hồ phu nhơn nghe nói say, trúng ý mình lại càng rót thêm, ép người bán ngọc uống thêm và nói:
– Không mấy khi vào dinh ta, hiền nương cứ việc ăn uống chơi cho thật tình, dầu có lở say, mùng kia, nệm kia, gối kia, giường sẵn một bên kia, hiền nương nghĩ chông với ta, có hệ gì mà sợ. Hiền nương hãy uống thêm cho vui, mựa từ chối mà ra tình lợt lạt.
Nói rồi Hồ phu nhơn lại hỏi:
– Kế gì mà hay lắm vậy hiền nương? Vầy bạn cách nào mà lấy nghĩa chị em giải nỗi tấc tình chăn gối lận? Ước như hiền nương kết bân cùng ta lấy nghĩa chị em chung chạ, có đặng vậy cùng chăng hiền nương?
Người bán ngọc:
– Bẩm lịnh phu nhơn đặng chớ sao không! Mà đặng cùng không cũng tại nơi lòng phu nhơn; vì phu nhơn là mạng phụ, tiện thiếp sợ e phẩm giá không đồng nhau, kết với nhau, mà chẳng thương nhau, thì không đặng; cũng bởi trong cái kế mầu ấy, yếu tại cái ái tình; cho nên kết nhau mà chẳng thương nhau, gần nhau, mà không yêu ấp nhau, như vợ với chồng, thì có chỗ mặn nồng gì đâu hòng giải nỗi gánh sầu lẻ bạn.
Hồ phu nhơn:
– Cớ sao lại không! Hễ kết nhau, thì thương nhau, yêu ấp nhau, chớ sao lại không. Hiền nương phải biết, từ thấy mặt hiền nương vào dinh, ta xem diện mạo hiền nương, thì ta, tuy cũng là phụ nữ như nhau, đã có lòng thương hiền nương rồi. Bởi vậy ta mới cầm hiền nương ở đêm trong dinh, đặng ăn uống nghỉ ngơi cùng ta cho phỉ; nếu chẳng vậy, hiền nương tưởng đâu ai muốn ở đêm trong dinh này cũng đặng hết sao?
Người bán ngọc:
– Bẩm lịnh phu nhơn, tiện thiếp vẫn biết lịnh phu nhơn có lòng hạ cố đến phận hèn nầy nhiều; nên gặp lúc lịnh phu nhơn mới thương tiện thiếp mà cho ở đêm lại trong dinh, để cùng lịnh phu nhơn hầu chuyện cho lịnh phu nhơn mượn mỏ làm vui canh vắng.
Hồ phu nhơn:
– Thật vậy, ta chẳng giấu chi hiền nương, gái mới về nhà chồng đặng một đôi trăng, tình yêu ấp nghĩa gối chăn, nồng mặn thể nào hiền nương cũng biết; mà vì việc nước, bỗng không phân cách nhau như vầy đây, bụng ra rầu nỗi chia phui thật khun kể xiết. Nếu hiền nương có kế hay, lấy nghĩa chị em đem thế làm tình chăn gối, ấp yêu cách nào, mà giải nổi mối sầu tư nầy cho ta hết năm canh luống ra vào, trằn trọc canh chầy chẳng ngủ, thì may mắn cho ta biết bao.
Người bán ngọc:
– Bẩm lịnh phu nhơn tiện thiếp không những có thể mà gỡ nổi mối sầu cho lịnh phu nhơn mà thôi, mà tiện thiếp còn làm đặng vui lòng thỏa dạ lịnh phu nhơn hơn cái tình chăn gối nghĩa ấp yêu kia nữa; song tiện thiếp có lời xin phước lịnh phu nhơn là đừng chấp nhứt tiện thiếp về sự chông chạ cùng lịnh phu nhơn trong những lúc nằm ngồi đi đứng, cạ vế kề vai, hoặc là cười nói lả lơi, vui giỡn như tình phu phụ.
Hồ phu nhơn:
– Không sao đâu! Đã rằng lấy nghĩa chị em làm tình chồng vợ, thì ta há còn nê chấp chi chăng. Hiền nương chớ ngại lòng, cứ việc đứng ngồi thong thả.
Nói rồi, Hồ phu nhơn rót rượu kéo người bán ngọc cùng mình ăn uống tới khuya. Lúc bấy giờ, hai đàng đều có bộ quá chén lỡ say; song say thì Hồ phu nhơn say, chớ người bán ngọc trong lòng còn tỉnh. Vậy mà Hồ phu nhơn có rõ biết đâu. Ăn uống xong, Hồ phu nhơn cũng gượng ngồi nói chuyện cầm chừng, đợi cho thể nữ dọn dẹp, rồi mới mời người bán ngọc vào phòng an giấc.
Vào tới phòng, Hồ phu nhơn vì lỡ vui quá chén say, nhào đại lên giường nhằm lim dim đôi mắt; song cũng chẳng quên người bán ngọc nối gót bước theo sau mình; nên Hồ phu nhơn còn gượng kêu:
– Hiền nương! Hãy lên giường, nằm phía trong đây mà nghỉ!
Người bán ngọc, từ nối gót Hồ phu nhơn mà vào phòng, phới phở tấc lòng, phập phòng trong dạ; cũng bởi hai đàng khó liệu, tấn thối lưỡng nan; nửa sợ nửa mầng, bán nghi bán tín. Bởi vậy cho nên theo vào tới phòng rồi, mà chẳng dám lên giường, cứ thơ thẩn đứng ngồi, mắt nhìn tứ cố.
Cho đến khi nghe có tiếng Hồ phu nhơn biểu, dạ dạ rồi cũng chẳng dám vào; ngồi ngoài mà dạ luống bồi hồi, dùng dằng sợ cơ gian tiết lậu, nghĩ rằng: Mình vì phải lòng Hồ phu nhơn, nên làm tròng làm tréo, mưu nầy kế kia, vào dinh hiền nương cho đặng, thì cũng đã hết sức rồi; tới đến đây mình lại lọt đặng vào phòng; ví biết mình chưa phỉ tấc lòng, chớ cũng đã vui dạ tợ vào đặng chốn cung trăng thềm quế. Nếu chẳng giữ lấy mình cho vẹn mà chờ cơ hội đặng có sẵn tay mở cửa động đào, vào thấu cảnh thiên thai bồng đảo, vội ham nghe lời nàng mà nhảy phóc lên giường, rủi thời vận bị quỉ thần xui, khiến cho nàng vì nghĩa chị em không nệ, lăn qua lộ lại đụng nhầm cái mối “oan gia” mà giựt mình đổ bể ra thì thân phận này phải ra sao? Có khốn khó cho chăng? Không những cơ mưu dĩ lậu, vỡ lỡ xa gần thôi, còn e nỗi lụy mình; ví chẳng khác kẻ lén vào vườn hồng, quyết trộm lịnh bẻ đào hái mận; mà rủi đào kia chưa bẻ đặng, đã bị người trói tại gốc đào; chừng ấy, ăn làm sao, nói làm sao, mình biết liệu kế nào thoát nạn. Chi bằng, nàng kêu gọi mấy lần cũng mặc, mình cứ việc dằn lòng kiếm cớ ngồi ngoài, chờ cho nàng mê mẩn giấc say; chừng ấy, nhắm cũng chẳng muộn gì, vào vén trướng ra tay bẻ mận!
Nghĩ chưa kịp dứt, xảy nghe Hồ phu nhơn mớ, kêu:
– Hiền nương, hiền nương, hãy thật tình ăn uống với ta cho vui!
Nghe qua, biết rằng Hồ phu nhơn đã mê mẩn giấc say rồi; người bán ngọc mầng cười, rồi nhẹ gót tới gần, tay khoát màn loan tay vén trướng phụng.
Vén mùng rồi vừa gác chơn để lên giường, xảy thấy một tòa thiên niên, lịch sự như tiên giáng thề, làm cho người bán ngọc mảng mê nhan sắc trơ mắt đứng nhìn; quên bổn phận mình, mưu sự tệ tình, bất cẩn.
Cái người làm sao mà: Môi son má phấn, mắt phụng mày tằm, gương mặt tợ trăng rằm, mau da như tuyết diễm. Nhan sắc, bạc ngàn cân, khó kiếm dung nghi, vàng trăm lượng không bì; cốt cách xem chi nhượng Tây Thi, diện mạo nhắm thua gì Kiều nữ.
Liếc mắc ngó tợ đôi châu chói rỡ, nheo miệng cười như sen nở đua hàng; đẹp đẽ thay, nét mày xanh như từ cái lá thắm cũng ghen, lằn môi đỏ tới con chim đen cũng ghét. Tay mười ngón, như mười mũi viết, răng hai hàm trắng thiệt tợ ngà; ngó lên trời nhạn ngẩn ngơ sa, dòm xuống nước cá lừ đừ lụy.
Thiên kiều bá mị, vạn chưởng phong lưu; người bán ngọc trộm liếc hiệp nghĩa thơ cưu, chốn này có phải chốn dân gian đây chăng? Đêm nay khiến hảo cừu Ngưu nữ!
Trộm ước thầm mơ vậy rồi, người bán ngọc ngồi ghé bên cạnh giường nhìn mặt cho tường hơn nữa. Lúc bấy giờ, trong phòng lặng lẽ, dòm quanh ngó quất chẳng còn nghe chi khác hơn là tiếng đồng hồ treo trên tường chạy tích tắc nghe hoài không ngớt; lại cũng chẳng còn thấy chi khác hơn ngọn đèn khuya chong để ánh còn sáng trưng, sáng cho đến đỗi say vùi vẩn.
Thấy Hồ phu nhơn mê mẩn giấc nồng, sổ dầu không hay, nằm bỏ tay, xấp xả quanh mình, người bán ngọc càng trông thấy càng mặn tình, lòng tự giục khó gìn cho đặng. Bèn sẻ lén lấy mền đắp bụng cho Hồ phu nhơn rồi lại muốn đưa tay rờ rẫm vuốt ve cho thỏa.
Không dè, mới thò tay ra vừa tới, bụng sợ phập phồng nó làm cho tấc dạ bồi hồi, tay run lập cập. Người bán ngọc không dám rờ! Lật đật thụt tay vào rồi, xay mặt ngó quanh quẩn bên mình, tuồng như kẻ cắp sợ gặp bà già mà không dám động. Ngó quanh ngó quẩn bên gường không ai, bèn ngồi tỉnh lại, dằn lòng, cho bớt run bớt sợ. Giấy phút, người lại ló tay ra; phen ni quyết chí đánh liều, rờ hoa thắm, vuốt má hồng cho thỏa.
Vuốt qua vuốt lại, rờ xuống rờ lên đôi ba phen mà Hồ phu nhơn mê mẩn không hay, người bán ngọc thấy vậy mới dễ ngươi, ái tình lại dồi lòng tư dục; khiến người nép ẩn bóng cây, trộm lịnh bẻ đào hái mận kia khôn dằn, muốn kề má hun cho phỉ dạ.
Ấy cũng bởi cái tình sắc giục của người đời, sức mạnh dường sóng gió; người cứng cỏi cách nào nó xô cũng ngã, nó đẩy cũng xiêu; xét kỹ, nó chẳng khác nào cái tham nam vô kể, không đáy không ngăn kia, nó hay làm cho con người quáng mắt điên đầu, ham muốn không ngằn, không kể phép nước luật quan ra gì, lại cũng chẳng quản chi là đạo lý. Miễn đặng thỏa lòng ao ước là hơn!
Đã vậy nó lại còn khiến người lầm tưởng trong sự ham muốn không có điều gì khó mà e! Bởi vậy người bán ngọc mới dám tưởng mình như kẻ trộm kia thừa lúc chủ giấc mê, lỏn vào nhà đặng rồi, thì muốn lấy món chi cũng đặng hễ hết ngoài rồi thì lần tới trong, khó chi mà sợ! Hễ rờ rẫm đặng vuốt ve đặng, thì mặc tình muốn hun cũng đặng, có ai ngăn trở mà lo!
Nào ngờ trong cái sắc còn có cái oai, nên tuy nó không độc như rắn, dữ như hùm, lại nó cũng chẳng hay làm sóng gió mà nhận nước ai, mà ai thấy mặt nó, cũng thương mà ghê mê mà sợ, hoài kỳ nghĩa, khiếp kỳ oai; bởi cớ, hiền xưa mới có để câu “Sắc bất bá đào dị nịch nhân” mà truyền dạy những tay háo sắc. Người bán ngọc có rõ cho chăng!
Chưa ắt người biết chăng mà khi bỏ tay qua chống dựa hai bên đai ngọc cốt liễu mi nằm trơ trơ kia, đặng có cúi mặt xuống hun cho thỏa thì tấc lòng thương sợ sợ lại càng bằng hai, ngực đánh rầm rầm, tay run lẩy bẩy; run sợ cho đến đỗi mồ hôi tuôn đượm giọt mũi thở chẳng ngớt hơi, khiến người bán ngọc cúi chưa tới mặt phu nhơn, mà đã giựt mình tỉnh ngộ.
Người bán ngọc vụt ngồi dậy, thở ra, song chẳng quên nhìn cái gương thu thủy, nét xuân sang còn sựng sựng trước mắt mình kia, ngồi nhìn mà muốn ăn năn, bỏ mưu sự tệ tình cho rảnh; nhưng bởi cái sắc dục sức mạnh phi thường, mạnh hơn cái trí lực của con người bội phần, nên trí thì muốn dứt bỏ, mà tình không đành dứt bỏ.
Gặp cơn tấn thối lưỡng nan, người bán ngọc còn đang ngồi tính tới tính lui, lo quanh lo quẩn, bỗng không, có con thằn lằn ở đâu bò tới đeo gần bên sợi dây đèn hồi nào, vùng chắt lưỡi giao canh, làm cho người bán ngọc giựt mình, ngoảnh mặt ngó lên, ngó trân trối một hồi, rồi lại bàn qua tình tự.
Thầm nghĩ: “Rất đỗi con thằn lằn là một loài nhỏ nhen, đực cái không phân, thư hùng nan biệt, háo sắc mà không háo nghĩa, biết dục mà chẳng biết tình, thấy cái sắc tuyệt trần còn không đành bỏ qua, dám rình ta mà trộm xem cho phỉ; bấy giờ thấy ta ăn năn muốn bỏ cái sắc mà ngơ mắt không nhìn, nó còn biết tiếc của đời, mà chắt lưỡi hít hà thay; huống chi ta là ngọc đã vào tay, ta lại tay biết ngọc, lẽ nào lại không lòng yêu ngọc. Bao đành bỏ bù lăn bù lóc, đã không đem về mà trao đổi, cho nên vóc, lại nỡ để cho ngọc trắng cát lầm; đào tiên đã rơi đến tay phàm, thà mà vinh nhành quịt cho cam sự thế!”
Nghĩ vậy rồi, người bán ngọc xay lại nhìn mặt Hồ phu nhơn; nhìn cho mãn nhãn rồi cũng ngồi chống tay, cúi mặt xuống quyết hun cho thỏa. Cúi xuống ngước lên đôi ba bận như vậy nữa, rồi đi lại cũng bị có một điều bụng sợ phập phồng, tay run lập cập mà ngại ngùng không dám đụng.
Sau rốt; người tức mình cúi xuống một bận nữa. Phen ni người thệ quyết làm gì cũng hun, dầu chẳng may, cơn mưa gió bão bùng cũng chịu; dè đâu, cúi xuống vừa tới mặt Hồ phu nhơn, bỗng nghe chuông đâu đổ một tiếng bon, làm cho người giựt mình thất lính, lồm cồm dậy xay mặt nhìn tứ cố. Nhìn bốn phía rồi trừng đôi mắt ngó, ngó rồi lại đưa bàn tay xòa lên, khoát khoát mà ra bộ biểu thôi, trong bụng lại thầm nói: Có lỡ tay khinh động một dùi, thôi! Đừng làm lỡ cuộc vui tội nghiệp! Tưởng là dứt ai dè còn đổ tiếp, tiếng chuông rền, không kịp trở ngăn; người bán ngọc giận, dững lông mày trợn mắt, nghiến răng, dường khoát mắng: “Ai cậy mi, ai mượn mi mà kêu, làm vỡ lỡ gối chăn canh vắng!”
Đồng hồ đã điểm hai, người bán ngọc sợ Hồ phu nhơn giựt mình, mở mắt thình lình ngó thấy, bèn bước qua ghế ngồi xay mặt ngó vô mùng, mà xét tới xét lui, lo quanh lo quẩn: nghĩ càng thầm tiếc, tiếc từ hồi hôm tới giờ mãn ngại ngùng mà bỏ hết thì giờ; đến bây giờ là bao giờ, mình hãy còn chờ mãi thế.
Nghĩ không lẽ mình ngồi bên giếng, chịu thiệt thòi nhịn miếng cho đành; thà đánh liều uống cho đặng hớp nước thanh, dầu chẳng may, uống vô khỏi cổ rồi có chết đi nữa, cũng sướng dạ, phỉ tình khao khát.
Nghĩ vậy rồi, người đứng dậy, sấp mình trở vô; lúc bấy giờ trong phòng lặng lẽ như tờ, ngó ra cửa sổ, lại thấy trên trời, ngửa nghiêng sao mọc, dật dờ sương bay. Người bán ngọc đi nhón gót, không dám cho động đất; sợ động, Hồ phu nhơn có giựt mình tỉnh giấc dậy chăng.
Mà thảm thay, ba con chuộc lắt, thấy vậy lại cắc cớ, không chịu để êm; bầy thì giành ăn với nhau căn lộn nhau mà vỡ chạy tưng bừng, còn lũ lại vui trăng gió reo cười thôi vỡ lỡ. Người bán ngọc sợ nó nhảy bất tử đổ đồ trên bàn mà Hồ phu nhơn giựt mình đi chăng, nên muốn đuổi cho nó sợ mà đem nhau ra khỏi phòng cho rồi đi, ngặt nỗi, không dám hở môi cho lột tiếng chi, cứ trơ mắt ngó, đưa tay khoát, chuột nó cũng khi không thèm nhúc nhích. Đuổi mà chuột nó không sợ biết sao!
Rốt cuộc phải nhịn thua nó mà đi, để mặc nó reo túc gì tự ý. Người giận bỏ lần bước lại giường. Gẫm có lại gì mà phải vẽ ra; thì bận nầy cũng như bận kia, hễ vào tới, thì cũng vén mùng, cũng ngồi ghé bên giường, cũng nhìn cũng ngó, cũng vuốt ve như thường, có chi lạ nữa. Có một điều là rờ rẫm vuốt ve thì không sao, chớ hễ muốn kề má xuống hun, thì lại hườn cựu lệ, trống ngực đánh rầm rầm, tay chơn run bây bẩy! Đi lại cũng chẳng dám hun!
Bởi vậy người cứ ngồi đó mà nhìn ngó, vuốt ve, nuốt nước miếng mà chịu như kẻ thèm me, sụt sè ngồi dựa gốc! Nghĩ có ứa nước mắt cho chăng! Vậy mà cũng đổ mồi hôi ướt dầm, như người bị cảm mạo phong sương, gặp cơn sốt rét; trong mình nóng tựa như lửa đốt, tay chơn thì lạnh ngắt như đồng, trong bụng sợ phập phồng, ngoài mặt thì biến sắc. Vậy mà cái tình sắc dục cứ đeo đuổi theo hối thúc, chẳng để cho một phút nào nguôi; có khi lại nghe vẳng vẳng bên tai như có tiếng người hỏi:
“ Có phải tu thì tìm cửa. Không nhờ, dưa muối với chuối xôi, ở chi đây, hương lửa đã bén mùi, lại ngồi đó mà trơ mắt ngó, chẳng liều tổn mua vui canh vắng hử?”
Dục thúc quá dằn lòng không tiện, người bán ngọc bèn gượng đưa tay rờ cái ngọc cốt phi phàm; mà nghĩ khổ cho cái thân kẻ hữu tình biết bao, cũng vì, hữu tình thì kiến sắc động dâm tâm; Bởi vậy rờ tới đâu chết điếng tới đó, lòng tư giục ai cầm cho đậu!
Dục riết, người bán ngọc chẳng biết liệu sao cho thỏa tấm tình, bèn đánh liều cầm lấy bàn tay tiên đỡ lên mà hun; hun mà sợ, hun mà thương, hun mà đôi giọt lệ chảy rưng rưng, hun rồi lại liếc mắt ngó chừng, ngó mặt Hồ phu nhơn mà khóc!
Khóc mà không buồn bực, khóc mà chẳng ngả lòng, nên khóc thì khóc vậy mà tay mình thì chẳng để ở không, cứ rờ rẫm mày mò từ trên tới dưới. Rờ xuống tới chơn Hồ phu nhơn, người bán ngọc ngồi ngẩn ngơ, dở tỉnh dở say, như hình trong mộng. Nghĩ cho mình lạc lối tới đào nguyên động, gặp tiên sa phụng lộn chi đây; thật giả đành trên nguyệt trong mây, hoa sao khéo giả dây lắm bấy. Nghi nghị hồi lâu, cầm lòng không đậu, người bán ngọc bèn cúi xuống ôm lấy bàn chơn Hồ phu nhơn mà hun, hun trơ hun trất một hồi, càng hun càng động tình, hun đến đỗi Hồ phu nhơn giựt mình mở mắt.
Ngó cái tình cảnh như vầy, ai có rõ lúc bấy giờ người bán ngọc ra sao chăng? Hổ ngươi biết bao mắc cỡ biết bao; thẹn lòng biết bao, ước sức muốn chôn xuống giường mà trốn!
Mà để trốn kịp cho chăng! Người bán ngọc chưa day, Hồ phu nhơn đã nắm tay, kéo xển nằm dài trên bụng hỏi:
– Hiền nương thương ta lắm sao?
Hỏi rồi lại hỏi:
– Bộ hiền nương cảm mạo thương hàn sao mà mình mẩy nóng đổ mồ hôi, tay chơn lạnh run en phát rét?
Người bán ngọc từ bao giờ đã khăng khắng một lòng, thầm ao trộm ước mà chưa gặp dịp nào may mắn, gần đặng cái ngọc cốt liễu mi cho thỏa tấc lòng hoài ái phù dung chi sắc; bấy giờ lại gặp hồi may, dì gió ả trăng khiến cho người quốc sắc thiên thương đem dạ yêu đương, gối chăn chung chạ, lại còn chẳng nệ cạ kề vai, nắm ay kéo níu, thì có mầng nào cho quá mầng nầy mà chưa chịu chông gối vui vầy cho thỏa, lý đâu Hồ phu nhơn níu lấy tay mà kéo xển lên mình, người bán ngọc lại trì lại như tình không khắng.
Thoảng lại người bán ngọc mà đặng Hồ phu nhơn bắt lấy tay, thì phỉ lòng ao ước biết bao, tấc dạ vui mầng chi xiết: thật thì nỗi mầng biết lấy chi cân; mầng có khác nào điểu ngộ lam phong, cửu hạn phùng cam võ; mầng đến đỗi trong lòng khấp khởi, mắt rưng rưng hột lụy chứa chan, nhưng bởi e tuyết lậu cơ gian, nên chẳng dám chờm lên tới mình nàng cho đụng.
Dường ấy cái nỗi sợ sức còn trỗi hơn cái nỗi mầng biết bao. Nếu muốn đem cái nỗi sợ đấy ra mà sánh với cái nỗi mầng nầy mà coi, thì thấy, mầng có một, sợ tới mười, nên trong bụng sợ run, ngoài tay chơn như rét. Rõ ràng cái nỗi mầng đặng dựa kề mình hạc, không cho lấp nổi cái nỗi sợ lậu cơ. Mãn có cái tịch như vậy biểu sao, khi Hồ phu nhơn nắm tay kéo lên, người không trì lại, chớ như người mà đặng tay tiên rờ tới, thì tấc lòng ái truất tư lương kia, không những đặng phỉ nguyền mà thôi, mà lại còn đặng khoái lạc vô cùng; khoái chẳng khác minh hoàng du nguyệt điện. Nhưng bởi cái sợ hãi kia nó đã diệt tận sự khoái lạc nọ hết rồi, còn tưởng biết chi là toại chí.
Cho nên lúc Hồ phu nhơn nắm tay mà kéo người lên, thì trong bụng người chỉ còn biết có một điều quá sợ phút run, chẳng dám chồm lên tới mình nàng; vì sợ lên đó ló đuôi, chi cho khỏi đụng chạm mà ra đổ bể.
Tuy vậy, người tránh trúc cũng chẳng khỏi tay. Nhắc lại khi người bị níu thình lình chưa kịp khom lưng trì lại, thì Hồ phu nhơn kéo tay người lên đã tới trên, đụng đôi hoa cất đẻ hai bên, nên người sợ quýnh quyến mà run lập cập.
Vả lại sự khủng khiếp không những nó làm cho con người áy náy tấc lòng, chơn tay run rẩy vậy thôi, mà nó hãy còn làm cho người phải khớp mà ra nghẹn ngào, nói chẳng ra lời, mở không ra tiếng.
Bởi vậy Hồ phu nhơn hỏi câu này tới câu kia mà không nghe đáp, thì chẳng phải là tai người bán ngọc không nghe; thật thì người nghe tạn tai, nhưng bởi tấc lòng ãi kinh khủng khiếp nó làm cho người khớp mà nghẹn ngào, chưa kịp mở ra lời; kế Hồ phu nhơn nắm lấy tay mà kéo xển lên, làm cho người phải sợ thêm thất vía mà run lên phát rét.
Hồ phu nhơn thấy vậy lại tưởng người rét thiệt, nên tiếp nói:
– Dữ không! Bị sốt rét đến đỗi run rẩy như vầy, sao hiền nương không nói cho ta hay, đặng ta trùm mền cho và úm cho bớt lạnh? Ngại nỗi gì để vậy chịu run?
Dứt lời, Hồ phu nhơn vói tay lấy cái mền đắp chung với nười rồi lại ôm người sát vào lòng, chuyền hơi má úm; tình hình xem có khác nào phận cải duyên kim. Thoảng lại người bán ngọc mà đặng vầy, thì phỉ lòng biết bao; khoái lạc biết bao; xéy kỹ, có kém chi cuộc đẹp duyên cưỡi rồng, phỉ nguyền sánh phụng; còn mong mỏi tìm tòi sự khoái lạc nào hơn mà chẳng tưởng mình cưỡi hạc mà lên cõi tiên dạo xem cảnh vật?
Thật, người bán ngọc lấy làm khoái chí toại lòng khun kể xiết. Nhưng mà rủi thay, cuộc vui vắn chẳng đầy gang, khiến cho tấm lòng thầm ước trộm ao đặng phỉ nguyền bao nhiêu, đặng khoái chí bao nhiêu, thì sự nghi sợ cũng có đủ bấy nhiêu, nghi sợ có một điều, làm lộng quá mà tiết lậu cơ gian không toàn tánh mạng.
Bởi vậy người bán ngọc chẳng dám để cho Hồ phu nhơn ôm; nên, trên thì cũng choàng tay qua ôm cái vóc ngọc mình vàng như Hồ phu nhơn ôm người vậy; còn dưới thì cứ nằm chèo queo, mượn hai gối chỏ ra mà đỡ che tội lỗi.
Tuy vậy mà mũi đặng kề má phấn, tay ôm đặng mình vàng, thì cũng đủ cho người bán ngọc phới phở tấc lòng, nên mình nằm đấy mà trí lãng về đâu không biết. Chừng nghe Hồ phu nhơn hỏi bớt lạnh chưa; người mới giựt mình tỉnh lại.
Đáp rằng: chưa, lại nói:
– Chẳng biết sao bữa nay, có uống chút rượu, trong mình khó chịu.
Hồ phu nhơn nghe người bán ngọc nói vậy, liền tiếp:
– Phải, ta đây cũng vậy! Bữa nay ta uống không mấy ly, mà chẳng biết tại sao tứ chi phủi động! Phải chi hiền nương không có đau, ta mượn hiền nương chịu khó bóp giùm tay chơn một lát cho bớt mỏi.
Người bán ngọc nghe hiểu đến đều lấy làm mầng lòng, ví tợ đi buôn gặp chầu, đi câu gặp vận, bèn xin vâng chịu liền:
– Bẩm lịnh nhu nhơn không sao. Tiện thiếp nhờ ân lịnh nhu nhơn bấy giờ cũng đã bớt lạnh rồi. Vậy, để tiện thiếp ngồi đấm bóp cho lịnh nhu nhơn một hồi miễn lịnh nhu nhơn đặng yên quý thể.
Nói rồi, người bán ngọc vụt trỗi dậy, coi vén tay vén chơn, vén áo vén quần Hồ phu nhơn, rồi ngồi lại dựa kề, ra tay mằn mò đấm bóp. Bấy giờ đồng hồ đã quá điểm ba; người bán ngọc ngồi và bóp và nhắm xem cái gương thu thủy nét xuân sang, nhan sắc tuyệt trần, cốt cách phi phàm bất tục, mà thầm khen rằng:
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà,
Dầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên.
Thấy vậy, nghĩ cũng đáng thương hại cho kẻ hữu tình biết bao! Càng nhìn càng khen, càng hoan càng hỉ; lại hễ biết toại lòng khoái chí thì ái tình càng giục thúc lả lơi; nó giục thúc cho đến đỗi, ngồi nhìn trân mà quên lửng sự đời, ngơ ngẩn tợ như người trong mộng.
Lòng riêng tưởng dâm tình càng động, làm cho người tẳn mẳn đê mê, dường thuyền cây bị sóng giữa vời, tỉ như hùm sa xuống giếng khơi, thân lúng túng khôn bơi khó lội. Ngồi suy nghĩ lấy làm tức tối, tơ kia không phải mối thì thôi, nợ nần chi buộc trói đền bồi, nên phải ngồi nhìn mặt mà chịu thiệt thòi chút phận.
Duyên kia dẫu mà ra hờ hững, vì thuở nay, nhện nầy chưa vương vấn tơ kia, nghĩ con tạo thật cũng khéo lá lay, khiến cho chi như khóa với chìa, rồi lại để ngồi đấy trơ mắt mà nhìn nhau, tợ như súng nhìn bia, không mỏi, đã vậy lại còn muốn trêu ngươi làm chi mà, đem cái sắc khuynh thành quen thói, cám treo heo nhịn đói nỡ nào; dường ấy nghĩ mà đau, con trăng già độc địa làm sao, dây chẳng lựa dám buộc vào lấy đặng!
Còn năn nỉ than dài thở vắn, bỗng đâu nghe tiếng đồng hồ vẳng vẳng bên tai, nghe chưa dứt tiếng chuông, bèn than: Bốn giờ rồi! Trời đất ôi!
Nì non đêm vắn tình dài.
Ngoài hiên thỏ đã non đoài ngậm gương.
Than ôi, người ngồi bóp chơn Hồ phu nhơn bóp từ dưới cườm lền lên tới trên vế rồi ngồi nhìn giọt châu tầm tã. Lúc bấy giờ Hồ phu nhơn giấc lại càng mê, không còn hay biết chi cả; mê cho đến đỗi khi cựa mình lăn lộn bỏ chơn qua gác trên vế người bán ngọc, mà nàng không hay; còn tay thì ôm lấy gối người mà nàng cũng không thèm biết.
Người bán ngọc đặng vầy thỏa tấc lòng biết bao, nên muốn dễ cho nàng nằm an vậy hoài cho cam, bèn không dám động; cứ giữ ngồi cứng ngắt một chỗ đấy mà chịu chết điếng trong lòng, tẳn mẵn đê mê mỏi cách mấy cụng không hề dám day dám trở.
Cái dâm tình bấy giờ có khác nào lửa cháy mà tưới dầu thêm, làm cho người bán ngọc lửa dâm phừng phừng, lòng nghi sợ khun cầm nữa đặng. Người mới thầm nói: “Trời đã gần sáng rồi, liệu sao; trời đất ôi, nếu mà bỏ qua cái cơ hội may mắn này, thì biết bao giờ gặp đặng một lần vầy nữa! Từ hồi đầu hôm tới giờ, phải mình đừng ngại ngùng sợ sệt mà dùng dằng cho ra vụn tính, thi mình dầu muốn sấn tay mở cửa động đào, rẽ mây tìm kiếm lối vào thiên thai mấy lần cũng đặng rồi, có đâu trễ đến bây giờ, còn ngồi đây mà ngơ ngẩn. Để ra đến bây giờ đây.
Người bán ngọc ngước mắt lên ngó đồng hồ rồi chắt lưỡi lắc đầu bộ coi lính quýnh, dường như bồn chồn sợ trễ nãi một việc gì gấp rút không thể bỏ qua, rồi lại tiếp tục mà thầm tiếc trộm than rằng: “Trời đất ôi, giờ khắc lẹ như tên; mới đây đã bốn giờ rưỡi sáng rồi, còn gì mà kể. Kìa kìa gà gáy tan khoan nhặt bên tai, xe cộ chạy rần rần ngoài ngõ, mình còn ngồi mà đợi chờ cơ hội nào nữa đây mà chưa chịu mây mưa đánh đổ? Từ hồi hôm đến giờ, mãn có, ai ôi có thấu
Nỗi riêng riêng những bàng hoàng,
Dầu chong trắng dĩa, lụy tràn thấm khăn”.
Mãn có vụn tính nhìn trân mà khóc thầm, nên phải cam chút phận thiệt thòi, nửa thương nửa sợ bồi hồi chẳng xong, chí như bây giờ đấy trời đã gần sáng rồi, còn đợi chi?
Mình hỏi lấy mình, đáp lời chưa đáp; bỗng nhiên Hồ phu nhơn cựa mình rên:
– Ư ,,, ư…
Rồi lăn lộn lại, nằm ngửa ra, bày hoa liễu chán chường trước mặt. Người bán ngọc giựt mình, lật đật bóp lia bóp lịa. Bóp lần lên tới trên, người lại ngừng tay, ngồi ngó không nháy mắt. Ngó xuống ngó lên một hồi, thảm cho cái thân phận kẻ mang nặng khối tình dữ a!
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ,
Khiến người ngồi đấy cũng ngơ ngẩn sầu.
Nhìn trân trối một hồi, ruột rối bời bời, tấc lòng khoan khoái; người bán ngọc, lúc bấy giơ lại thường hay ghé mắt coi chừng đồng hồ, thấy kim qua lẹ như thoi đưa, thì người lại càng lo sợ quính quíu chừng nào, thì cái tình sắc dục nó lại càng làm cho lửa tâm càng dập càng nồng chừng nấy; ví chẳng khác nó dục thúc người phải mau ra tay bẻ cái nhụy đào; đã vậy, cơn bấy chừ người la6i vẳng vẳng bên tai, như có ai trách lẫn rằng: rõ ràng của dẫn tay trao, sao chưa chịu lãnh đi cho rồi, còn ngồi đợi hội nào đâu nữa!
Người bán ngọc ngộ cái cảnh trạng lạ thường như vầy, mới ngồi định tâm nghĩ lại một mình rồi quyết hẵn rằng:
Một đêm gió mát trăng trong,
Năm canh nay đặng chút lòng chửa cam.
Làm gì cũng đánh liều cho thỏa tấm lòng ước mơ, chớ không lý mỡ để trước miệng mèo ngồi nhìn mà liếm mép. Làm gì cũng phải ăn; dẫu rằng duyên phận chẳng may, gối chông đầu rồi thác cũng ưng. Nghĩ nghị xa gần như vậy rồi, người bán ngọc:
Sóng tình dường đã xiêu xiêu,
Xem trong âu yếm, có chiều lả lơi.
Người bán ngọc ngồi ngó Hồ phu nhơn mà lên từ nước tóc màu da, tới cành hoa nhụy đóa; ngó trân trối một hồi rồi lại khen:
Hoa hương càng tỏ thúc hồng,
Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu.
Khen rồi, người lại nhìn mặt Hồ phu nhơn càng thêm tươi mà mỉm cười; mà trong chỗ cười của người đấy, không những còn có dấu yêu thôi, mà hãy còn có dạ nghi ý sợ, song đồng hồ đã điểm năm, tiếng gà đã gáy sáng, còn giờ nào nữa mà e; nếu chẳng quyết ra tay, để hết đêm tới ngày, té lẻ hoài công vô ích. Bởi vậy người dằn lòng sợ, gượng làm gan mà quyết:
Mây mưa đánh đổ đá vàng,
Quá chìu nên phải chán chường én anh.
Tưởng vậy là vậy, dè đâu người mới vừa sấn tay mở cửa động đào, rẽ mây trông rõ lối vào thiên thai, thì người đã giựt mình mà thụt tay vô liền; dường như có điều chẳng hiền, sự duyên trắc trở.
Người bèn ngừng; ngồi ngó cái vóc ngọc mình ngà, mặt hoa mày liễu của người nằm đấy mà đôi mắt chan giọt lệ. Người bán ngọc mới thầm xét lấy mình.