Sự tích “Cù lao Ông Hổ”

Ngày xưa, cù lao Ông Hổ chỉ là một cồn cáy nhỏ hoang vu, chưa có người đến ở, hổ, báo, rắn, rít và chim muông ngang dọc trên cồn. Lần hồi phù sa bồi đắp cồn cát dài rộng thêm ra. Cho đến nay đã thành cù lao rộng lớn, chu vi ngót mười cây số, phù sa vẫn tiếp tục đắp bồi. Dưới cuối cù lao bao giờ cũng có một bãi phù sa mới ùn lại, nhão quán đổ hồng. Dân làng gọi đó là “bãi lan bồi”.

Rồi không biết từ lúc nào, có những người phương xa kéo đến, họ đốn tre kết bè vượt sông và dừng cah6n trên cồn đất không tên.

Cồn đất âm u dần dần quang đãng. Người đến càng đông, rắn rít không còn, thú rừng lần lượt tìm về Bàu Núi. Đầu cồn đến cuối bãi bây giờ san sát ruộng lúa, nương dâu, đồng lác. Người ta đào mương dẫn nước vào cồn, xây cầu, lập vườn trái cây. Nhà cửa mọc lên đông đúc, có trường dạy chữ Nho, có tiếng thoi dệt lụa và có tiếng ngâm thơ trong thôn xóm.

Cuộc sống yên vui bỗng dưng náo động bất ngờ. Không biết từ đâu một con hổ thỉnh thoảng mò về ngồi lặng phía đầu cồn vào những đêm trăng sáng.

Dân cồn không sợ. Họ đào sẵn những đường hào gần nơi con hổ thường ngồi. Ai cũng tay gậy tay dao sẵn sàng. Một đêm trăng sáng, quá nửa đêm hôm ấy, dưới ánh trăng, từ dưới bãi, con hổ ung dung từng bước lên cồn. Chờ hổ đến gần mọi người hét lớn xông ra khỏi đường hào huơ gậy, huơ dao đuổi hổ. Không chút hoảng hốt, con hổ nhẹ nhàng nhảy một bước khá xa rồi biến mất sau những lùm cây.

Những lần sau, cũng vào tuần trăng, trai tráng trong làng lại ra đường hào rình đuổi hổ. Và cứ thế không biết bao nhiêu lần, khi đàon người xông ra hổ lại biến mất trong bóng cây. Điều hết sức ngạc nhiên, không một lần con hổ chống trả hoặc hại người. Có lần người ta thử ngồi im trong đường hào coi con hổ làm gì. Nó lặng lẽ đến bên hai ngôi mộ cũ, ngồi im hồi lâu rồi bước nhẹ nhàng xuống bãi biến vào rặng lau dày sát bên mép nước.

Như vậy, con hổ đến ngồi đây không phải đi kiếm mồi, phá phách xóm làng. Từ lúc phát hiện con hổ về làng tới lúc này, chưa nhà nào bị hổ quắp con chó, con heo. Vậy, nó về làng phải vì lý do khác. Một điều lạ nữa là sao nó không đến nơi nào trong xóm mà lần nào cũng ngồi bên hai ngôi mộ cũ? Có người ngờ rằng nó muốn moi xác người dưới mộ. Không có lý. Người dưới một đã chết nhiều năm rồi, da thịt còn đâu mà hổ định moi. Giống hổ tinh khôn, hầu như không bao giờ nó ăn thịt thúi rữa. Hoặc là thần hổ. Giả thiết này có người nghĩ đến, nhưng chưa có cơ sở đáng tin. Dân cồn này xem xét điều gì quen nhìn vào sự thiệt, ít nghĩ theo nếp nghĩ hoang đường. Một vị bô lão râu dài, cao tuổi nhứt trong làng, lại là người thông hiểu chữ Nho, người thầy dạy chữ trên cồn, bỗng nhớ ra một chuyện, con hổ này không phải là hổ dữ, cũng không phải là hổ thần. Có vẻ con hổ này đã quen quá với xóm làng này. Bởi nó về đây với phong thái ung dung không phải có vẻ táo tợn của hổ đói đi kiếm mồi. Lặng lẽ đến, lặng lẽ đi. Đến lần nào cũng tìm đến hai ngôi mộ cũ. Người dưới mộ là ai?

 – Tôi nhớ ra rồi. – Giọng cụ già phấn chấn – Đó là vợ chồng bá thuyền chài mất trong trận dịch tả mùa hè năm Ất Dậu.

Ai nấy ngạc nhiên, chăm chăm nhìn ông lão, chờ nghe chuyện gì mà con hổ lại dính dáng đến cái chết của bác thuyền chài? Cụ nghiêm trang nói tiếp.

 – Bà con, các vị nghĩ tiếp với tôi coi có đúng như vậy không? Cái nghĩ riêng của một người không phải lúc nào cũng đúng cả.

Tôi nhớ bác Năm Vạn thuyền chài, không con. Hai ông bà sống với chiếc thuyền nhỏ và ngôi nhà phía trên bãi sậy. Từ lâu đất cồn này không còn hùm beo, rắn rít. Không hiểu sao một sáng sớm hai vợ chồng bác Vạn đang chèo thuyền đánh cá ven cồn, chợt thấy con mèo hì hụp dưới bờ lau. Hình như ai quăng nó xuống nước, mèo mà rớt xuống nước chỉ có chết thôi. Con mèo cố hết sức tìm cách vào bờ, nhưng rặng lau dày quá làm nó kiệt sức, trồi lên hụ xuống mấy lần rồi.

Bác thuyền chài bảo vợ:

 – Thôi chèo vô vớt dùm nó lên đi bà!

 – Một lát nó cũng lên được thôi, thăm cho xong lưới cái đã, để chậm cá lớn tới ăn cá trong lưới của mình.

Bác Năm Vạn ôn tồn nói:

 – Chẳng mất đi đâu. Dù có, cũng chỉ một hai con, mình nghèo nhiều chớ đâu phải nghèo đôi ba con cá. Vớt dùm con mèo lên đi. Lòng nào thấy nó làm ngơ, đứng nhìn nó chết.

Bà vợ nghe phải, quay mũi thuyền vào chỗ con mèo sắp chìm trong nước. Bác vạn nhanh tay vớt con vật vừa hụp xuống mặt sông. Bác bỏ con vật ướt sũng lên thuyền.

 – Ổ, cọp con. Nó bị con gì cắn cụt mất khúc đuôi.

Vợ bác thuyền chài hốt hoảng. Bác Vạn mỉm cười.

– Cũng chả sao. Đem về nuôi cho vui cửa vui nhà.

Vợ bác thuyền chài trố mắt.

– Ôi! Thôi đi! Ai lại nuôi cọp trong nhà.

Bác Vạn cười to.

 – Ở rừng theo bản năng nòi giống hoang sơ, nó sẽ hung hăng như cọp mẹ cọp cha. Mình nuôi nó theo nếp của con người, nó sẽ lành như chó như mèo cho bà coi.

Vợ bác Vạn tỏ vẻ không tin, bác nói thêm với vợ.

 – Mình coi kìa, nó lạnh run, tội nghiệp quá! Nó nhìn mình sợ sệt có dám hăm he đâu. Con thú nào cũng sợ người, ngay khi nó ngang dọc trong rừng. Nó cắn người là khi nó đói hoặc tự bệ theo bản năng. Mình chẳng nhớ người quê, người ta nuôi gấu, nuôi voi. Nhà vua còn nuôi cọp lớn làm trò vui đó sao.

Bác thuyền chài lấy giẻ lau khô nước trên mình cọp con, bác vuốt ve lưng cọp, nó nhìn bác chăm cah8m. Bác nhìn vào đôi mắt ngây dại của nó.

– Đói hả con? Cho mày con cá.

Bác Vạn cầm con cá bống mẫy, đưa tận miệng con cọp.

 – Ăn đi! Mẹ mày đâu? Đã bị người ta giết hay đã lạc nơi nào? Tội nghiệp, mới bây lớn mà đã mồ côi! Thôi, về ở với tao, tao nuôi. Lớng khôn đừng hung, đứng ác nghe con.

Com vật nhỏ bé nào cũng nể sợ con người – dù nó thuộc giống nòi hung dữ – và sẽ bị chinh phục bởi trí khôn ngoan, lòng dũng cảm và đức độ của con người. Cọp con sống ngoan ngoãn với vợ chồng bác Vạn thuyền chài.

Mấy năm sau có người bảo xẻ thịt cọp đi, da bán lắm tiền, xương nấu cao quí lắm. Bác Vạn lắc đầu.

 – Biết vậy nhưng nó ngoan ngoãn giết sao đành. Vả lại không nên vô cớ giết hại sanh linh. Tôi không nỡ làm điều này. Nếu nó dữ, không dạy được, không đợi bà con bảo tôi cũng ra tay.

Thình lình dịch tả lan đến đất cồn. Nhiều người được kịp thời cứu mạng, chẳng may vợ chồng bác Năm Vạn không thoát nổi cái bịnh hiểm nghèo. Bà con chôn cất hai bác trên chỗ đất đầu cồn. Con cọp không còn người nuôi, nó cũng vẫn ở trong ngôi nhà vắng của bác Vạn. Nhớ lời bác lúc còn sống, không ai làm gì con hổ. Tội nghiệp nó đói – và sợ cọp đói có thể phá phách xóm làng – người này quẳng cho nó con cá, người nọ liệng cho nó miếng xương heo. Con cọp vẫn sống qua ngày trong tình thương của mọi người chung quanh nó.

Đột nhiên một trận giông lớn xảy đến, mưa gió tầm tã mấy ngày đêm, Dòng sông cuộc sóng. Sóng ập cả lên cồn. Ngôi nhà hoang của bác thuyền chài từ lâu không ai chăm sóc, cột kèo rệu rã mục sập đổ ngay trong đêm tối mưa giông. Mấy ngày sau người ta không thấy con cọp đâu, không biết nó trôi dạt nơi nào. Và bao nhiêu năm qua bà con không còn nhớ con cọp do bác Năm Vạn từng nuôi. Bây giờ lại có cọp về đây …

… Tôi tin nếu không phải con cọp của bác thuyền cah2i, thì không có con cọp nào có hành vi lạ lùng như vậy, rình mồi sao lại ngồi chỗ trống và chỉ ngồi bên ngôi mộ của vợ chồng bác Vạn mà thôi, Giống cọp biết nhớ ơn người.

Từ sau câu chuyện ấy, không ai xua duổi con cọp khi nó về làng nữa. Họ coi nó như đứa con hiếu thảo. Và cứ thế mỗi năm đôi lần nó về cồn ngồi bên mộ của bác thuyền chài.

Bỗng một hôm dân cồn trông thấy xác con cọp cụt đuôi trôi dạt vào bờ lau phía dưới cồn, đúng là con cọp của bá thuyền chài. Hẳn nó vượt sông về thăm chốn cũ gặp sóng to, đuối sức, không kịp đến bờ. Thương con vật có nghĩa, biết nhớ ơn người, dân còn vớt xác nó lên chôn gần ngôi mộ vợ chồng bác Năm Vạn. Họ dựng lên ngôi miếu nhỏ để nhớ bàc thuyền chài nhân hậu và con cọp biết nghĩa, biết ơn. Cũng từ đó dân cồn gọi cù lao này là Cù lao Ông Hổ.

(Theo Mai Văn Tạo)

error: Content is protected !!