Ông Dật – Ông Đà

Thuở Thiên Hộ Dương lập căn cứ chống Pháp ở Đồng Tháp Mười, có hai người, một tên Đà, một tên Dật – vốn từ thuở nhỏ nhà ở gần nhau, lớn lên lại cùng học một thầy và cùng đỗ một khoa ngang nhau.

Ông Dật theo tiếng gọi của Tổ Quốc, vào Đồng Tháp Mười chiến đấu dưới cờ của Thiên Hộ Dương. Cón ông Đà thì lại hợp tác với tân trào Lang Sa.

Ông Dật được Thiên Hộ Dương phải ra vùng Cao Lãnh (thuộc tỉnh Đồng Tháp) ngày nay để vận động các sĩ phu và nhân dân tham gia, đóng góp cho nghĩa quân và đồng thời do thám tình hình của giặc. Ở đó, lúc bấy giờ quyền sinh sát đều do viên đội người Pháp tên là Couray chỉ huy.

Công việc chưa thành thì ông Dật bị giặc Pháp bắt.

Hay tin ông Dật bị bắt, Đà xin tên đội Couray để tự mình khuyến dụ Dật quy hìang. Couray đồng ý.

Chúng đem ông Dật giam lỏng tại nhà một ông Thông tri, lại cắt người phục dịch cơm nước rượu trà, chuẩn bị xong đâu vào đấy, mấy hôm sau, Đà khăn áo chỉnh tề đến thăm. Đến nơi Đà giả vờ hối tiếc rằng mình đà hay tin quá muộn để cho ông Dật phải bị những ngày lao lung buồn khổ.

Ông Dật mỉm cười đáp:

 – Làm việc nghĩa há lại sợ lao lung gian khổ chăng? Có gian nan mới rõ mặt đá vàng.

Vì không hay Đà theo Pháp, nên ông Dật chân thành thăm hỏi tình cảnh hiện của bạn. Được dịp, Đà ngâm bài thơ đáp lại:

Lỡ làng chưa trọn phận làm trai,

Tạm sống cho qua đoạn tháng ngày.

Trái mắt cũng thôi đành ngậm miệng,

Đau lòng chịu vậy đã nghiêng tai.

Về Tào chi xá thân hèn mọn,

Ở Hán còn bao kẻ trí tài?

Này nước, này nhà hai gánh nặng,

Xốn xang lòng tớ có ai hay.

Nghe bài thơ ông Dật biến bạn mình nay đã “về Tào”, bèn họa lại:

Tai ngơ sao được phận làm trai,

Mấy thuở gây nên được những ngày,

Thục nữ còn ra giành trách nhiệm,

Tu mi sao để chịu nghiêng tai!

Biết Tào nên chẳng ra phò trợ,

Gặp Hán sao không biết trổ tài?

Sóng gió rồi đây trời bể lặng,

Già lòng đâu phải gọi rằng hay!

Đà nghe bài thơ họa lấy làm thẹn đành bỏ về.

Hết lần này đến lần khác, Đà lấy cớ thăm bạn cố tri, đến khuyên Dật theo Pháp. Nhưng lần nào, Đà cũng bị ông Dật khẳng khái từ chối. Có lúc Đà bị ông Dật mắng đau. Cuối cùng, Đà căm tức gởi cho ông Dật bài thơ Vịnh con tôm lời lẽ hằn học.

Ỷ mình lớn mắt lại dài râu,

Gan mật nhà va nỏ có đâu.

Chim chít khoe khoang tài mũi nhọn,

Sụt sùi nấp lén chống giòng sâu.

Đánh hơi thấy xác mùi ra miệng,

Nghe tiếng chài te cứt lộn đầu.

Căn giọng múa men cơn gặp nước,

Cực vì ăn chạ mắt sa câu.

Xem bài thơ của Đà, ông Dật buồn cười cho giọng lưỡi kẻ mãi quốc cầu vinh. Ông họa lại.

Loài ở lộn đùn cũng mộ râu,

Ngo ngoe nó biết mốc chi đâu!

Cong lưng cứ ý tài đâm bắn,

Ló mắt không dò ngách cạn sâu.

Ngoài ú lom xom càng múa gọng,

Trong thoi sùi sịt đít co đầu.

Giống rồng xin chờ đứng quen thói,

Một ngùi là xong mất tát câu.

Làm xong bài thơ, ông Dật trao cho nên tùy phái của Đà. Ông dặn thêm:

 – Người đem thơ này về cho chủ và nhớ nói là ta không muốn chủ ngươi nghĩ đến ta, tốt nhất là hắn tự nghĩ đến cái thân tôi đòi của hắn.

(Theo Huỳnh Ngọc Trảng, sđd.)

error: Content is protected !!