Tương truyền trước khi mang tên Đồng Tháp Mười vùng này có tên là Mãng Trạch, một trũng rộng lớn hoang vắng.
Đồng Tháp Mười là một trong những căn cứ kháng chiến chống quân xâm lược của nhân dân Nam Bộ, đối với thực dân Pháp thì Đồng Tháp Mười là cả sự kihếp đảm kinh hồn: “Tây vô Đồng Tháp Mười làm ma không đầu”.
Nói đến Đồng Tháp Mười, người ta thường nghĩ tới đỉa, muỗi, nước phèn.
Muỗi kêu như sáo thổi,
Đỉa lội lềnh như bánh canh.
Danh xưng Đồng Tháp Mười có từ lúc nào? Ít ai nói đến. Còn tại sao lại gọi là Tháp Mười thì có nhiều giả thiết.
– Có người nói rằng: Ngày xưa, cánh đồng này là một vương quốc thịnh vượng giàu có, nhưng về sau bị một nạn hồng thủy dâng lên rồi cuốn đi hết cả nhà cửa, con người, … Trong xứ này trước sau có tất cả 10 vương quốc trị vì, mỗi ông đều xây một ngôi tháp làm nơi an nghỉ cuối cùng. Khi chôn cất nhà vua, người ta chôn theo cung phi và vàng bạc. Có lẽ, cũng do từ thuyết này nên người ta tin rằng ở Gò Tháp có vàng.
– Cũng có người cho rằng: Đây là cái chùa Tháp Thứ 10 của người Khmer tính từ Chân Chạp xuống. Những tháp này được nối liền với nhau bằng một con đường lót đá.
– Lại có thuyết khác cho rằng: Đây là cái tháp thứ 10 do nghĩa quân Thiên Hộ Dương xây cất trên cánh đồng lầy này, bắt đầu từ vàm Ba Sao đến Gò Tháp, nên gọi là Tháp Mười. Những tháp này là những tháp canh phòng tàu giặc rồi dùng mật hiệu thông tin cho nhau biết. Còn vàng thì người ta cho là của nghĩa quân không kịp mang theo khi rút lui khỏi đồn vào năm 1886, phải chôn vội vã xuống sình, rồi sua trở lại tìm không được.
– Gần đây, có sách viết rằng đó là do cái tháp mười tầng cao 42 thước được xây dựng vào năm 1958.
– Người Pháp trước đây thường gọi Đồng Tháp Mười là đồng có lát (Plaine des Joncs)
– Cũng có người viết rằng: Tháp Mười là một trong những ngôi tháp bằng đá do vua Jayavarman VII xây cất trên khắp lãnh thổ để thờ vị thần Bà la môn Lckecvera là vị thần chuyên trị bịnh của nhân loại. Bên cạnh tháp có những căn nhà gỗ lợp bằng ngói hay bằng lá thốt nốt, để cho người bịnh nằm dưỡng, có nhân viên y tế hoàng ttriều coi sóc. Những ngôi tháp được xây dọc theo các con đường lớn và ngôi tháp nằm trong Đồng Tháp Mười đứng vào hàng thứ mười, tính từ địq điểm xuất phát.
Thời gian đã tàn phá các công trình kiến trúc của người xưa, dãy nhà gỗ tiêu tan, chỉ còn lại một tượng sư tử và một linh phù (linga) bằng đá, dưới bệ có khắc chữ Phạn ghi tên tháp thứ mười.
Năm 1932, nhà khảo cổ học người Pháp Parmentier đã đi vào Đồng Tháp Mười bằng xuồng để đọc những chữ khắc trên đá và đã phát hiện ra ngôi tháp. (Lê Hương trong bài địa danh, di tích, thắng cảnh trong vùng ngưởi Việt gốc Miên, tập san Sử D)ịa, số 14-15 năm 1969).
Trong quyển Lịch sử thế giới trung đại của Lương Ninh và Đặng Đức An có ghi: “… Nhà vua còn cho lập 102 bịnh viện, phân bố trong toàn vương quốc và ‘người đau đớn cho bịnh tật của thần dân còn hơn của mình’; cả 4 đẳng cấp đều có thể được săn sóc ở đây. Người ta đã tìm thấy cả dấu vết của trên 30 bịnh viện, trong đó có 15 nơi còn tìm thấy cả bia đá với những nội dung giống nhau, nói về ý định việc cung ứng, tổ chức và trị bịnh”.
Và trong quyển Lịch sử Campuchia của Phạm Trung Việt, Nguyễn Xuân Kỳ và Đỗ V8an Nhung cũng có ghi: “Lòng từ bi của ông thể hiện trước kết quả những hoạt động từ thiện mà những tài liệu văn bia có ghi chép một cách khá rõ ràng. Đó là hệ thống bịnh viện – ước chừng 102 bịnh viện mà ông đã xây dựng khắp nơi trong nước. Mỗi bịnh viện đếu có một bản nội quy mà nội dung được khắc chữ trên tấm bia đá dựng trong một ngôi chùa nhỏ xây cạnh mỗi bịnh viện”.
Như vậy phải chăng Tháp Mười là bịnh viện thứ 10 trong 102 bịnh viện được xây dựng dưới thời Jayavarman VII? Hẳn cón phải chờ đợi kết quả cuộc khai quật ở Gò Tháp.