Trong màng loan Dương phu nhơn mộng quái,
Dưới cột lý Ngô Thứ-sử trần tình.
Năm mậu tuất (năm 938) đêm rằm tháng giêng, lúc gần hết canh ba, mảnh nguyệt treo giữa trời soi sơn-thủy, giọt nước sương chan mặt đất rưới cỏ cây; nẻo lợi danh vắng-vẻ bước con người, mùi cam khổ tạm bay xa trần thế.
Ái-châu thành[1] là chỗ địa-đầu thị-tứ, dân cư trù mật, quan quân nhộn nhàng; chánh là một trường cạnh tranh lợi danh, mà cũng là chánh một chốn nực nồng cam khổ. Đêm nay canh khuya, trời lạnh người người đều ngơi-nghỉ, nhà nhà đều im-lìm, tưởng là bóng âm che khuất lòng trần, nào dè cách một hồi nghe tiếng chuông trên chùa cúng Phật, mới hay đêm tuy khuya, tiết tuy lạnh, chim trong rừng tuy ngủ, cây trên núi tuy yên, nhưng mà người đời chưa rảnh được nợ trần, hoặc còn mưu kế sanh tồn, hoặc đương tính về phương siêu độ.
Trong dinh quan Thứ-sử, cửa tư bề đóng chặt, người cũng vắng bóng lại qua; duy trước hiên chị nguyệt dỡn hoa đào và bên chái ngọn đèn chờ bạn ngọc. Trống vừa trở canh tư thì thấy quan Thứ-sử Ngô-Quyền ở trong phòng bước ra, bưng đèn đem để trên án, rồi sẻ lén mở cửa đi ra ngoài. Bóng trăng tỏ rạng, soi sáng cả mình, mới thấy người tuổi vừa mới quá bốn mươi, vóc to, sức mạnh, trán rộng, mặt ngang, mày rậm, râu dài, cặp mắt lớn mà lại sáng, trông hình dạng thì đủ biết là một người chí khí cao, độ lượng lớn. Quan Thứ-sử xem trăng rồi lần bước đi lại gần mấy hàng hoa đào, thấy bụi hoa nào tốt rờ rẩm sâm soi, còn dòm bụi hoa đèo thì châu mày ủ mặt. Xem hoa xong rồi mới chậm chậm đi thẳng ra hồ sau, thấy dưới cội lý có mấy cái ghế bèn lại đó mà ngồi. Bóng trăng soi mặt nước như vàng gieo bạc chảy, tiếng dế kêu dưới cội như câu hát giọng đờn; quan Thứ-sử ngồi một mình nhắm cảnh thanh vật tịnh rồi lòng bắt nhớ chuyện sẽ tới, nhớ người ở xa, nhớ tổ quán cố hương, nhớ ơn cha nghĩa bạn.
Mắt đương lim dim, trí đương nghĩ nghị, bỗng nghe phía sau lưng có tiếng tằn-hắn. Quan Thứ-sử day lại thì thấy phu-nhơn, là Dương-thị, biệt hiệu là Nguyệt-Cô, nhẹ bước vạch nhành lần lần đi tới, Phu nhơn đã gần bốn chục mà sắc hãy còn thanh tươi, nước da trắng, gương mặt tròn, mặc áo sô đen, dạng đi yểu điệu. Khi phu nhơn bước tới thấy quan Thứ-sử liền đứng lại mà hỏi rằng:
– Đêm khuya tiết lạnh, sao tướng công không ngủ mà lại ra ngồi ngoài nầy?
– Chẳng biết vì cớ nào đêm nay trong lòng tôi bức-rức ngủ không được, nên tôi thức dậy mở cửa ra ngoài. Đứng trước hiên thấy trăng tỏ, trời thanh tôi mới lần bước đến đây ngồi ngoạn cảnh. Sao phu-nhơn không nghỉ, mà sao lại biết tôi ở đây mà kiếm?
– Thưa tướng-công số là tôi đang ngủ, bỗng chiêm bao thấy phụ thân tôi đầu xã tóc, mà mặt mày tái xanh chạy vô cửa kêu tôi rồi đứng ngó tôi mà khóc. Tôi la lên một tiếng rồi giựt mình thức dậy, cả mình hạn xuất ướt dầm. Tuy tôi biết là chuyện chiêm bao, song không hiểu lành dữ lẽ nào, nên chạy qua phòng tướng-công đặng tỏ lại cho tướng-công nghe. Chẳng dè qua đến đó thấy phòng không vắng vẻ, tôi bước ra tiền đường thấy đèn còn chong trên án mà cửa lại mở bét, tôi liệu chắc tướng-công ra ngoài, nên mới nhẹ gót đến đây mà bày tỏ chuyện chiêm bao cho tướng-công bàn thử.
– Phu-nhơn đừng có sợ. Người ta nói mộng là mị biết sao là lành, sao là dữ mà bàn. Phu-nhơn ngồi ghế đó mà nghỉ chơn, rồi trở vào mà ngủ.
Quan Thứ-sử kéo một cái ghế còn bỏ trống dưới cội cây đem ra mời phu-nhơn ngồi. Lúc đó có một vừng mây bay áng mặt trăng làm cho tư bề cỏ cây lờ mờ, cảnh vật trông ra hết đẹp. Chẳng biết hai người ngồi dưới cội, thấy trăng lu mà buồn bực, hay là nhớ giấc mộng là não nề, song cả hai đều ngồi im-lìm không ai nói tiếng chi hết. Cách một hồi lâu vừng mây qua khỏi, nguyệt sáng lòa, hoa cỏ khoe màu, nước non rạng vẻ; phu-nhơn liếc thì thấy quan Thứ-sử nét mặt ưu sầu, bèn cất tiếng hỏi rằng:
– Thưa tướng-công đá nói chiêm bao là mộng mị, mà sao nãy giờ coi bộ tướng-công không được vui? Nếu thiệt là điềm chẳng lành thì xin tướng-công cũng nói cho thiếp hay. Thiếp tuy là phận gái mặc dầu nhưng mà thiếp đã tuần quen nguy hiểm phong ba, bởi vậy dầu gặp dịp chẳng may thiếp cũng đủ trí đởm đương xin tướng-công chớ ngại.
– Phu-nhơn sợ quá nên nghi cho tôi dấu diếm phu-nhơn đó mà thôi, chớ nào có phải điềm chiêm bao đó làm cho tôi buồn đâu.
– Vậy chớ tướng-công buồn về việc chi?
– Tôi buồn cũng nhiều việc, buồn về việc nhà việc nước lo những nghĩa nặng ơn sâu, nghĩ thiệt khó mà tả hết cho phu-nhơn nghe được.
– Thưa tướng-công, thiếp tuy vụng về yếu đuối, nhưng mà thiếp hằng hết lòng lo sửa trắp nâng khăn. Đã vậy mà lại nhờ phật trời ủng hộ cho vợ chồng ta sanh được hai đứa con trai, thằng Xương-Cấp nay tuổi đã 12, và thằng Xương-Văn nay tuổi đà 11. Còn tướng-công thì đường công danh rực rỡ, làm quan đến chức Thứ-sử, oai quyền to lớn binh tướng dõng cường, cứ Ái-châu thành bố đức trăm nhà, dân Chiêm-thành quốc nghe danh khiếp sợ. Việc gia-đình như vậy, đường công danh như vậy, mà sao tướng-công lại buồn? Hay là thiếp ở có chỗ nào thiếu sót nên tướng-công phiền riêng thiếp chăng?
– Phu-nhơn không rõ, để tôi tỏ thiệt cho phu-nhơn nghe. Tôi vốn con nhà hàn vi lê thứ, chẳng may mẹ cha mất sớm nên tôi phải xứ Đường-Lâm[2] mà rảo bước giang hồ, chủ ý của tôi là muốn kiếm bạn tri-âm mà kết nghĩa đồng-tâm, đặng lập chút thân danh cho rỡ ràng nam-tử. Thiệt cũng nhờ có phật trời giúp vận, nên đến Bình-Kiều[3] may gặp được nhạc phụ yêu thương. Tôi chẳng có tài gì mà nhạc-phụ lại gả phu-nhơn cho tôi, rồi trong lúc dấy nghĩa binh mà đánh Lý-Khắc-Chánh, đuổi Lý-Tấn về Tàu, tôi cũng chẳng có công lao bao nhiêu mà chừng nhạc-phụ cầm quyền Tiết-đạt-sứ rồi lại cho tôi lãnh chức Ái-châu Thứ-sử, lo giữ gìn nam-phương cường-giới.
– Lời tướng-công nói đó là lời khiêm nhượng mà thôi chớ thiếp nghĩ họ Dương ngày nay mà được giao ngôi cao quyền cả, ấy cũng là nhờ có sức tướng-công nhiều nên mới được như vậy chớ.
– Phu-nhơn đừng có cãi lẽ, để tôi nói hết cho phu-nhơn nghe. Làm trai như tôi đây, công danh rực rỡ, mà lại có vợ hiền, có con trai, theo thường tình ai cũng đều phỉ nguyện. Nhưng mà đứng làm trai hễ được vinh huê phú quí rồi thì độc thiện kỳ thân, bo bo giữ lấy cái địa-vị cao sang mà hưởng, ai hoạn nạn không biết thương yêu, ai lâm khổ không thèm tế độ, không lo đền ơn xưa nghĩa cũ, không chịu tính hậu vận tương lai, thế thì sao đáng mặt trượng-phu hào-kiệt. Nãy giờ tôi ngồi đây, trăng-thanh cảnh tịnh khiến cho tôi động lòng mà nhớ những việc trước sau. Tôi nghĩ tôi mang ơn nhạc-phụ thiệt là nhiều, mà không biết lấy chi đền đáp. Nhạc-phụ đã lấy lòng trượng-phu quân-tử mà đãi tôi, nếu tôi muốn báo đáp thì tôi cũng phải lấy nghĩa trượng-phu quân-tử mà đối lại mới vừa. Chẳng giấu chi với phu-nhơn, mấy năm nay tôi thường lo mưu tính kế quyết giúp cho nhạc-phụ dựng cơ-đồ vương bá trong chốn nam phương, nhưng mà tôi tính chưa được nên tôi buồn. Phu-nhơn nghĩ đó mà coi, thằng Lưu-Cung ở thành Phiên-ngung [4] nó tài trí gì mà tự xưng là Nam-Hán Hoàng-Đế. Chúng ta ở đất Giao-châu gồm đến 12 châu, cộng là 59 huyện, mà hơn một năm nay chúng ta cứ thần phục nước Tàu hoài. Nay nhạc-phụ đã cầm quyền Tiết-đạt-sứ nhắm lại dầu tự xưng vương, xưng đế, nghĩ cũng chẳng kém gì Lưu-Cung. Hềm vì nước ta ở giữa, phía Bắc người Tàu cứ hầm hầm thâu đoạt, phía nam Chiêm-thành toan nhiễu loạn biên cương. Đã vậy mà trảo nha của nhạc-phụ đếm không đặng mấy người, lại trong mấy người ấy chưa chắc đã tận tâm nưng đỡ. Bởi vậy cơ đồ vương-bá thiệt là khó dựng, mà tôi coi việc bảo tồn chưa chắc chắn chút nào. Tôi nghĩ cuộc đời nằm nhắm mắt không an, bởi cớ ấy nên tôi buồn chớ nào phải là buồn vì nghe chiêm bao mộng mị hay sao.
– Thưa tướng-công, tướng-công nói những lời trung nghĩa, thiếp nghe qua thiệt cảm xúc vô cùng. Tuy vậy thiếp xin tướng-công cho phép thiếp hỏi đôi lời: phụ-thân của thiếp thế cô lực thiểu, còn đất Giao-châu nầy lưỡng diện thọ địch, bởi vậy cho nên nếu muốn xây nền vương bá thì khó đã đành rồi. Còn tướng-công nói nha-trảo của phụ thân không mấy người, lại trong số ấy chưa chắc hết thảy đều tận tâm tá trợ, thì thiếp không hiểu vì cớ nào mà tướng-công lại nói như vậy. Tướng-công, là con rể trong nhà, cứ Ái-châu đặng ngăn đón Chiêm-thành, còn Dương-kiết-Lợi, là em đồng tông, thì cứ Lục-Châu[5] đặng ngăn ngừa Bắc-địch. Trong xứ lại còn những anh-hùng hào-kiệt như Kiều-công-Tiện, Đỗ-cảnh-Thạc và nhiều người khác nữa lo phò tá phụ thân, vì sao mà tướng-công lại còn lo sợ?
– Phu-nhơn là phụ nữ xẩn-bẩn trong chốn khuê phòng làm sao mà phu-nhơn hiểu những cơ trị loạn tồn vong cho được. Thiệt tôi lìa xa nhạc-phụ trong lòng tôi chẳng chút nào an, ngặt chỗ trọng trấn nầy không dám phú cho ai, nên cực chẳng đã tôi phải ở đây mà gìn giữ. Chẳng phải việc nước làm cho tôi ưu lự mà thôi, việc nhà tôi xem cũng chưa vừa con mắt. Vợ chồng ta có hai đứa con trai, ấy cũng là hạnh phúc, song tôi dòm hai đứa đều nhu nhược không có khiếu anh-hùng. Tôi nay tuổi đã 41 rồi; tôi sợ e sau ngày tôi nhắm mắt qui tiên thì hai trẻ không biết kế chí của tôi mà làm cho tông môn hiển đạt.
– Hai đứa nó khờ dại ăn chưa no lo chưa tới, hơi nào tướng-công lo quá như vậy. Tướng-công ráng dạy dỗ chúng nó lần lần, chừng chúng nó lớn khôn thì chúng nó tự nhiên biết đường chánh nẻo tà chớ.
Quan Thứ-sử nghe phu-nhơn khuyên như vậy. Tướng-công thở dài và đứng dậy mà hỏi rằng: “Ngồi lâu có hơi lạnh, vậy thôi trở vào dinh mà nghỉ một chút !”. Vợ chồng dắt đi vô, chồng đi trước, vợ theo sau, huỡn đãi mà đi, không nói chuyện gì nữa hết.
[1] Ái-châu thành bây giờ thuộc trong tỉnh Thanh Hóa (Trung kỳ)
[2] Đường-Lâm bây giờ thuộc tỉnh Sơn-Tây (Bắc Kỳ)
[3] Bình-Kiều ở lối chung quanh thành Hà-nội bây giờ không chắc thuộc trong tỉnh nào.
[4] Phiên-ngung bây giờ thuộc tỉnh Quãn-Đông (Trung-hoa)
[5] Lục-châu gồm tỉnh Lạng Sơn và tỉnh Quảng Yên (Bắc kỳ)