Nhân tình như nước, thế sự như mây.
Tứ lão thái gia và Ngũ lão thái gia nằm mơ cũng không ngờ những kẻ cùng tộc, hôm qua còn phải nương nhờ vào hơi thở của mình, hôm nay lại dám ăn nói như vậy.
Các bô lão được mời tới, tuy rằng răng rụng gần hết, giọng run lẩy bẩy, lại vẫn cân nhắc từng chữ, lời lẽ hùng hồn, dẫn chứng từ việc “Thương Ưởng” ban bố “Phân di lệnh” cho đến lễ pháp lưu truyền các đời, hễ là gia tộc phồn thịnh đều phải phân ra ở riêng, vừa giúp các nhà thêm bề hưng vượng, vừa có thể giúp đỡ lẫn nhau … Văn vẻ dong dài, tóm lại một câu: đã phân nhà rồi thì nên mỗi người một nơi.
Ngài viện cớ lão hầu gia? Sau khi cha mẹ qua đời, anh em tình cảm thân thiết, ở cùng nhau cũng phải. Nhưng chỉ nghe nói dựa vào cha mẹ chú bác, dựa vào anh em ruột thịt, chưa bao giờ nghe nói tới làm chú lại phải đi dựa vào cháu cả.
Sao? Ngài viện cớ thái phu nhân còn khỏe mạnh? Nhưng vị chị dâu cả tái giá này còn trẻ tuổi hơn hai ông em chồng rất nhiều, ngài nhất định đừng nói không chịu rời phủ hầu là vì “không nỡ rời xe” chị dâu nha.
Ngài viện cớ Cố Đình Dục sao? Thân thể hắn yếu ớt, khó lòng chống đỡ cả phủ, cần bề trên giúp đỡ cũng là đúng. Nhưng mà Cố Đình Diệp trái lại tinh lực tràn trề.
Phủ Hầu có “thành tựu” như hiện nay, không thiếu sự tích cực tham gia của các vị. Những năm qua cảm ơn các vị đã ủng hộ cảm ơn các vị trợ giúp, cảm ơn các vị chu đáo trông nom, bây giờ các vị thành công rút lui được rồi đấy. Hình tượng chói chang rực rỡ và tình cảm cao thượng sâu đậm của các vị sẽ vĩnh viễn ở lại trong lòng chúng tôi.
Bye bye, đi thong thả, không tiễn.
Ngũ lão thái gia tức run lên, mềm người trên ghế không dậy nổi, Tứ lão thái gia vỗ bàn đứng phắt dậy: “Ông đây muốn ở thì ở, muốn đi thì đi, bao giờ đến lượt người ngoài khoa tay múa chân!”
Ông ta vốn là người ngang tàng, dứt khoát giở thói vô lại, co cổ ngồi phía sau, chửi bới ầm ĩ: “Chúng mày thật không biết xấu hổ, trước kia dai như đỉa đói, dựa vào kẽ hở hàm răng của ông đây để sống. Giờ thấy ông thất thế thì bỏ đá xuống giếng hả! Nói cho chúng mày biết, ông không đi đấy! Thằng nhãi Diệp có bản lĩnh thì tự đến mà đuổi!”
Khí thế vô cùng hùng tráng, đáng tiếc, ông ta có Trương Lương Kế, người ta có thang vượt tường.
Chưa đầy giây lát, Cố Đình Huyên mồ hôi đầy đầu chạy vào phòng, thì thầm bên tai vài câu, Tứ lão thái gia tức thì mặt thoắt thay đổi, nghiến răng giậm chân hồi lâu, sau đó chán nản ngã ngồi xuống ghế, không chống cự nữa.
Chuyển hướng rõ rệt như vậy thật ra chẳng hề lạ lùng, không cần Minh Lan dò la, chi thử tư đã tự tiết lộ.
Cố Đình Bỉnh bị phán lưu đày, nhưng cùng là ba nghìn dặm, hướng Bắc kém xa hướng Tây. Ba nghìn dặm hướng Bắc cách kinh thành là vùng biên thùy. Chỗ đó chẳng những băng tuyết trắn trời, dân cư hoang vắng, còn hay bị Hung Nô xâm phạm. Đừng nghĩ tới việc sống yên ổn, nếu lành lặn trở về đã coi như mộ phần tổ tiên bốc khói xanh rồi.
Song ba ngàn dặm hướng Tây lại khác hẳn. Từ khi Võ hoàng đế bình định Nỗ Nhĩ Kiền đo ti, khu vực Tấn và Phần đại để an lành, cộng thêm triều đình chuyên tâm gây dựng vài chục năm, bước đầu hiệu quả. Ruộng tốt được khai khần, lại có quân đội chiếm đóng nên dù sao cũng có không ít thôn trang và huyện lị. Trừ phương diện giải trí hơi kém (tuổi trung bình của gái lầu xanh là 35 trở lên), các mặt còn lại đều chấp nhận được.
Ngoại trừ rất út ý chỉ tuyên bố rõ ràng địa điểm lưu đày (như đồng chí Lâm Xung xui xẻo), còn lại những phạm nhân tội nhẹ vẫn có thể thương lượng. Cũng chính vì vậy mà hàng năm khi triều đình định tội xong, hình bộ và quan lại nha môn đến mùa ăn nên làm ra, náo nhiệt tới mức người người chen chúc hỏng cả cửa.
Cố Đình Huyên là ông anh phúc hậu, mấy ngày nay hắn cầm bạc chạy vạy khắp nơi, tìm mọi cách để Cố Đình Bỉnh đi đường thoải mái hơn, đơn cử như được tháo gông xiềng, được ngồi xe ngựa, còn có thể mang hai đầy tớ đi theo. Điểm đến lại là trấn nhỏ vùng Tây Bắc thái bình, không cần màn trời chiếu đất, ăn lông ở lổ. Thoạt trông khơi thông sắp thành công, nào ngờ đột nhiên ra sự cố.
Lúc trước vụ án nghịch vương liên quan rộng rãi, nhiều thế giai đại tộc dính líu, trong đó không thiếu nhà phạm tội tương tự nhà họ Cố, thuộc kiểu nửa nhẹ nửa nặng, tội danh xu nịnh quá đà, dính dáng không sâu, chưa đến mức phản nghịch. Bọn họ cũng có chút ít quan hệ, bôn ba móc nối hồi lâu liền dây dưa tới cả nhà họ Cố.
Xin hỏi tội gì nặng nhất thời cổ đại? Chính là thông đồng với địch bán nước (tội phản quốc) và mưu phản (ý đồ lật đổ quốc gia).
Thông thường, trong xã hội giai cấp hà khắc này, nếu anh ở tại vùng chóp kim tự tháp, nơi trung tâm quyền lực, có bối cảnh có sức mạnh, lại dám cướp đoạt dân nữ, thúc ngựa giẫm đạp ruộng đất của dân chúng, thậm chí tham ô thì nặng nhất là một đao mất đầu, tịch thu tài sản, giải tán gia quyến (nếu là hoàng thân quốc thích thì bước này được miễn).
Chỉ có hai điều phía trên, một khi phạm phải thì giết cả tộc không thương lượng, còn giết tam tộc, cửu tộc hay thập tộc thì phải trông vào tâm tình và nhân phẩm của hoàng đế khi ấy.
Thế mà tội của nghịch vương lại chính là mưu phản.
Nhìn từ góc độ này, tội danh của họ Cố có vẻ hơi nhẹ, dù gì bọn họ cũng thực sự thay nghịch vương móc nối quan hệ.
Họ Cố chỉ có Cố Đình Bỉnh bị phán tội, nhà khác lại là cả cha lẫn con chú cháu. Phán tội lưu đày ba năm? Nhà khác bị phán hơn mười năm đây này. Chính vì thế mà bọn họ tự nhiên không phục.
Sao, họ Cố chỉ đặt mau vài mỹ nữ? Nhà chúng tôi cũng chỉ giúp mua vài con hát đào kép thôi? Chẳng lẽ ca hát nhảy múa còn nguy hại cho xã hội nhiều hơn so với bán thân hả? Cò còn lương trì và thiên lý nữa không? Nhà đặt mua tiểu quan tuấn tú cũng biểu thị bất mãn mãnh liệt! Đúng là phân biệt đối xử giữa hoa cúc với quả hồng, chả lẽ cách dùng lại không giống nhau!
Được rồi, đoạn trên là Minh Lan tự suy diễn. Nàng nghe Tiểu Đào kể lại tin đồn đặc sắc xong liền ngã ngửa ra, còn vô lương tâm đấm giường cười to.
Sự tình dồn dập, hình bộ cũng phải đau đầu.
Trường hợp của họ Cố tuy do Hoàng đế khâm định, nhưng hình phạt cụ thể do hình bộ đưa ra. Lúc đầu tiếp chỉ, vì nghiền ngẫm ý tứ bề trên nên mới phán nhẹ tội danh cho Cố Đình Bỉnh, bây giờ lại … Nếu chuyện xé ra to, đụng phải đám ngôn quan nhiều chuyện (Hình bộ các anh trông người bưng thức ăn nha) thì không khỏi phiền phức. Ra chỉ dụ miễn tội là không có khả năng, nhưng nếu định tội nhỡ may lại quá nặng.
Không đầy vài ngày, Hình bộ liền phong thanh truyền ra, nói phải cân nhắc mức phạt lần nữa cho Cố Đình Bỉnh, hoặc đày xa thêm hai ngàn dặm (khu vực biên cương nguy hiểm), hoặc đày thêm bảy năm, làm tròn là mười năm, không thương lượng thêm. Tứ lão thái gia còn phải bỏ ra số bạc “chuộc tội” khá lớn.
Lần này Tứ lão thái gia thực sự sợ hãi.
Tiêu bạc ư, vốn đã tiêu không ít rồi, trước mắt chính là cái động không đáy, còn không biết hiệu quả thế nào. Nghĩ móc nối quan hệ ư, từ ngày ông ta bị mất chức quan ngũ phẩm nhàn tản, không có công danh, ngay cả sành chính của bộ hình cũng không vào được.
Biết tin, dì Lưu và Bỉnh nhị phu nhân tức thì người ngất người ngây. Sau khi tỉnh táo lại cùng tới cầu Tứ lão thái gia cứu mạng, nào là kéo tay áo ôm bắp đùi, nào là khóc lóc nỉ non, ồn ào từ sáng đến tối. Tứ lão thái gia bó tay hết cách nhưng bản thân vẫn sĩ diện, bèn gọi con trưởng tới nhờ Cố Đình Diệp hỗ trợ.
Không hiểu Cố Đình Diệp nói gì trong thư phòng, Cố Đình Huyên mặt ủ mày chau đi ra. Sau khi trở về thuật lại khiến Tứ lão thái gia nổi cơn thịnh nộ trách mắng một hồi.
Chuyện cứ thế dây dưa thêm hai ngày. Hôm đó, Dung nhi và Nhàn nhi đứng trong phòng, lanh lảnh đọc thuộc lòng “Đào hoa nguyên ký”, Minh Lan thì mỉm cười ngồi nghe. “Đào hoa nguyên ký” có từ ngữ thuần khiết thanh lệ, nhàn nhã thản nhiên. Minh Lan rất thích phong cách này, cộng thêm giọng đọc trong sáng, gương mặt khả ái của hai chị em khiến cả phòng đều vui. Ngay cả vú em của Nhàn nhi ở bên cạnh cũng thấy vui vẻ.
Đọc xong rồi, Minh Lan cất giọng tán thưởng, liên tục gật gù. Nhàn nhi ngoan ngoãn tới gần, lắc tay áo Minh Lan, nũng nịu: “Thím Hai, bọn con đọc xong rồi, thím nói phải giữ lời đấy!”
Minh Lan cười tươi tắn, vỗ về gương mặt nhỏ nhắn của cô bé: “Tất nhiên. Thím sẽ bảo Đan Quất cầm lồng tới, lại bảo quản sự Hách xây phòng nhỏ cho thỏ trắng, được không?”
Dung nhi đang ngại ngùng bên cạnh Nhàn nhi cũng sáng bừng mắt, khẽ khàng: “Có thể làm … hai tầng được không, tầng trên che lá và hoa lên.”
Minh Lan bật cười, cố ý bảo: “Được chứ. Nhưng mà hai đứa phải học thêm cái gì mới được.”
“Được được được! Thím nói đi, cháu nhất định sẽ xem Dung nhi học thuộc!” Nhàn nhi tức thì đồng ý, Dung nhi cũng háo hức, mặt mũi đỏ bừng, cười tươi roi rói, ánh mắt trong trẻo ngây thơ.
Minh Lan cũng thầm vui mừng.
Nếu mà là con ruột, Minh Lan chắc đã sớm gầm lên “ranh con có học hay không hả” hoặc “không học hành tử tế coi chừng bà đây lột da”, v.v… đâu cần phải mất công thế này! Dung nhi vốn dĩ không hứng thú với sách vở, tính khí lại bướng bỉnh, khó dẫn dắt … ôi … bây giờ ít nhất cũng có cách.
Vừa tiễn xong hai chị em, còn chưa kịp thở một hơi, bên ngoài chợt ồn ào náo động.
“Trông sắc mặt Bỉnh nhị phu nhân không tốt, phu nhân, ngài … cẩn thận.” Lục Chi nhanh chân chạy vào, khẽ bẩm.
Hóa ra là nữ quyến chi thứ tư lập tổ đội đánh tới, Minh Lan thoắt rùng mình, lập tức lên tinh thần ứng chiến.
Đón khách tiến vào ngồi xuống, đôi bên đối mặt.
Kỳ thực Lục Chi nói giảm quá rồi, đâu chỉ sắc mặt Bỉnh nhị phu nhân không tốt. tất cả nữ quyến chi thứ tư sắc mặt đều khó coi ấy chứ.
Dâng trà hàn huyên xong, bất chấp hầu gái còn ở đây, Bỉnh nhị phu nhân vội vàng nhắc tới chuyện Cố Đình Bỉnh, thỉnh cầu Minh Lan hỗ trợ. Minh Lan nghe rồi không hề đáp lại, chỉ vẫy tay cho đám đầy tớ lui ra, giữ lại Lục Chi và Tiểu Đào để ngừa bạn nhất bị đánh cũng có vệ sĩ chống trả.
“Chị dâu Hai” Minh Lan cúi đầu thổi trà, tách trà xanh lục dập dờn làn nước màu hổ phách, nàng nhã nhặn nói: “Lần trước em đã nói rồi, chuyện chú cháu bọn họ em sẽ không nhúng tay vào. Nếu hầu gia vươn tay giúp, tất nhiên là tốt, nếu không giúp cũng do hầu gia có lý lẽ riêng. Chị nói với em chỉ vô dụng thôi.”
Bỉnh nhị phu nhân tựa như dây đàn cuối cùng bị đứt, đứng phắt dậy, trợn mắt đầy tơ máu nói: “Cô dám nói thế à! Có phải một chi chúng tôi chết hết rồi, các người mới hài lòng đúng không? Được, được lắm, cứ để tôi đây chết đi!”
Minh Lan liếc chị ta, không hề cử động, mỉm cười như cũ: “Chị nói đùa, anh họ vẫn đang êm đẹp, chị lại muốn chết, vậy mấy đứa cháu phải làm sao?”
Chiêu tự sát vô dụng đối với nàng.
Tứ lão phu nhân mặt mũi mỏi mệt, ngồi yên không nói gì, Huyên đại phu nhân có vẻ tức giận, thấy vậy bèn cao giọng nói: “Mau ngồi xuống! Cô tức giận với em dâu làm gì? Lấy chồng theo chống, cậu Diệp từ nhỏ đã có chủ kiến, liên quan gì tới em dâu? Mở miệng ngậm miệng là đòi sống đòi chết, không thấy xui à!”
Bỉnh nhị phu nhân vốn đâu có muốn chết, tiện đà xuống nước, nằm nhoài ra ghế khóc hô: “Vậy phải làm sao?” Vừa khóc vừa bảo Minh Lan: “Tôi biết vị kia nhà tôi đắc tội hầu gia, nhưng không xem mặt tăng cũng phải xem mặt phật, dù sao cũng là thân thích, sao nỡ khiến anh em phải chịu tội! Hầu gia thật nhẫn tâm, thấy chết mà không cứu …”
“Rầm” một tiếng, Minh Lan dằn mạnh chén trà xuống bàn con, mặt như sương lạnh: “Chị nói năng phải bằng lương tâm! Cái gì gọi là thấy chết mà không cứu!” Sống lưng nàng thẳng tắp, ánh mắt thoáng lướt qua ba người, cuối cùng xoáy sâu vào chị ta, cười lạnh: “Chị ra ngoài mà hỏi, những nhà phạm tội tương tự nhà ta, bây giờ ra sao! Có nhà thu hồi gia sản, có nhà bị lưu đày, còn có nhà mát đầu nữa! Kể cả ở tù cũng là bao nhiêu người, bao nhiêu năm?”
Âm thanh cao vút, giọng nói ngậm lửa giận. Minh Lan tiến lên vài bước, bức bách nhìn chị ta: “Giờ đây trong nhà chúng ta, chú Tư không sao, chú Năm không sao, các anh cũng không sao, chỉ có một người chịu tội, lại còn chuẩn bị phản tội nhẹ! Ha ha … Đây vốn do ai bôn ba, do ai ra sức! Chị giỏi thật, nói một câu là gạt bỏ tất thảy!”
Đôi mắt vốn to tròn của nàng khẽ nhíu lại, tràn vẻ châm chọc: “Thoạt đầu tôi còn tưởng hầu gia làm việc không hợp tình hợp lý, bây giờ xem ra, hừ, quả nhiên làm việc tốc không được khen ngợi, còn bị trách ngược!” Nói xong bèn tức tối ngồi sang một bên, không nói gì thêm.
Vốn dĩ những lúc thế nầy, Huyên đại phu nhân thường đứng ra giảng hòa, có điều hôm nay chị ta dường như cũng bực bội, cố ý không mở miệng. Bỉnh nhị phu nhân thấy vậy bèn xoay người lao về phía chị ta, vừa kéo vừa khóc: “Chị dâu, chị nói gì đi chứ! Chị thân nhất với em ấy, chị nói gì đi! Lẽ nào nhìn em chị đi chịu tội!”
Huyên đại phu nhân bị kéo áo xoèn xoẹt, cáu giận đẩy phắt ra, buông giọng thản nhiên: “Tôi biết nói gì? Dù sao chỉ là chị dây khác chi, cũng không phải bậc cha chú bề trên!”
Bỉnh nhị phu nhân đầy bụng tức giận không chỗ trút, bèn trỏ thẳng vào Huyên đại nhu nhân quát: “Tôi biết chị mưu tính xấu gì! Nghĩ giết chết chúng tôi để vợ chồng chị độc chiếm gia sản chứ gì!”
Huyên đại phu nhân tức điên, thoắt đứng dậy, móc mấy tờ giấy từ tay áo ra, đập mạnh xuống bàn quát: “Cô nhìn xem đây là cái gì?” Ánh mắt mọi người liền lướt qua, chỉ thấy là mấy tờ biên lai xanh đỏ.
Huyên đại phu nhân tức đỏ bừng mặt, gào to: “Mấy hôm nay vì thay cậu Hai chuẩn bị, khắp nơi phải dùng bạc, nhưng mấy năm nay cái gì cũng nằm trong tay cậu ta, chúng tôi thì ngay cả một văn tiền cũng không được cầm! Bây giờ cần tới bạc, cha thì cả ngày la hét không có tiền, chồng tôi đành phải cầm cố đồ đây này!”
Chị ta càng nói càng sôi máu, sau cùng căm hận: “Tôi nói cho cô biết, mấy năm nay tôi chưa từng lấy một cây kim nửa sợi chỉ từ tay cô! Tôi làm chị dâu không hề có lỗi với cô, cô ăn nói cho cẩn thận, bức bách quá thì mọi người đều không cần phải sống nữa đâu!”
Bỉnh nhị phu nhân cứng họng, chính chị ta cũng không nỡ bỏ tiền ra, thầm nghĩ giữ lại chút tiền vốn cho con cái và bản thân, một lòng trông ngóng quỹ chung, ngờ đậu Tứ lão thái gia lại keo kiệt như vậy. Chị ta chảy nước mắt, nhất thời không nói nên lời.
Mắt thấy chi thứ tư bỗng dưng nội chiến, Tứ lão phu nhân cuối cùng không ngồi im được, đứng dậy tỏ vẻ khẩn cầu: “Minh Lan, chái vào nhà này mặc dù ngắn, nhưng thím biết lòng cháu lương thiện. Hiện giờ cậu Bỉnh rơi vào cảnh này, con cái còn nhỏ, cháu không có nửa phần trắc ẩn ư?”
MInh Lan ngẩng đầu lên, kỳ quái nhìn bà ta: “Xin hỏi thím Tư, trước đây Hầu gia bỏ nhà ra đi, các vị có biết chàng mang theo bao nhiêu bạc? Chàng ra ngoài biết nương nhờ vào ai? Giang hồ tranh đấu tàn nhẫn, chàng liệu có bình an? Từng đấy năm, chàng ở đâu, làm gì? Cả cái phủ hầu to như vậy liệu có ai hay? Liệu có ai hỏi tới?”
Nàng chậm rãi hỏi từng câu, từng chữ như đao đục kiếm đâm, sắc nhọn dị thường. Nói khó nghe, những năm đó dù Cố Đình Diệp có chết ở ngoài thì chỉ sợ ngay cả người nhặt xác cũng không có. Minh Lan thầm khinh miệt vô cùng, ngoài miệng lạnh nhạt: “Hiện nay cậu hai Bỉnh có cha mẹ bận tâm, có anh trai chị dâu bôn ba giúp, mạnh hơn nhiều so với hầu gia khi ấy.”
Một hồi truy vấn, Tứ lão phu nhân cũng đáp không nổi, hồi lâu, bà ta xấu hổ nhỏ giọng: “Thím biết … Cậu ấy phải chịu ấm ức.”
Minh Lan nhếch môi, hơi giễu cợt: “Cháu nghĩ, cháu vẫn nên thương tiếc cho chồng mình trước rồi mới thương tiếc tới nam nhân bên ngoài thì hơn.” Giới hạn thông cảm của nàng rất thấp, chỉ xứng phát cho ít người thôi.
Bỉnh nhị phu nhân thấy cả Tứ lão phu nhân cũng không làm gì được thì dợm mở miệng. Minh Lan quay đầu lại, giành lên tiếng: “Chị dâu Hai, nói thẳng ra nhé. Dựa theo mức ‘tình cảm’ của hầu gia và cậu Bỉnh, chàng cũng xem như tận tình tận nghĩa rồi.”
Nàng cố ý nhấn mạnh hai chữ ‘tình cảm’, Bỉnh nhị phu nhân ngây ngẩn, Minh Lan nhìn sắc mặt chị ta, mỉm cười bảo: “Chuyện đến nước này, so với cầu xin hầu gia, chi bằng chị quay về xin chú Tư thì hơn.”
“Cầu, cầu cái gì?” Ánh mắt chị ta lập lòe.
Minh Lan thầm khinh thường, lạnh nhạt: “Chị dâu Hai, giả vờ hồ đồ không phải vạn linh dược đâu.”
Chi thứ năm dứt khoát hơn nhiều, họ đang bắt đầu thu dọn toàn bộ gia sản lẫn nô bộc, ước chừng mười ngày nửa tháng là chuyển đi được.
Nói đến mức này, chỉ cần không phải cố tình thì đều hiểu rõ ý Minh Lan.
Bỉnh nhị phu nhân chán nản ngồi sụp xuống, chị ta không muốn ở riêng, sống dưới đại thụ được hưởng gió mát, đặc biệt hiện thời Tứ lão gia ngay cả chức quan hư danh cũng không có. Huyên đại phu nhân mím môi ngậm miệng, không nói một câu.
Tứ lão phu nhân nhìn hai cô con dâu, thở dài, kéo tay MInh Lan giọng điệu thành khẩn xót xa: “Thím biết trong lòng cháu vẫn giận, mấy năm nay … Chú Tư và cậu Bỉnh quả thật không tốt, nhưng mà, Minh Lan à …” Giọng bà ta thêm phần nghẹn ngào: “Chúng ta nhất định sẽ chuyến đi, nhưng cháu có thể niệm tình em Huỳnh mà trễ hai năm được không? Con bé sắp phải lấy chồng, nếu gả đi từ phủ hầu, thì …”
Minh Lan bình tĩnh, xoay người đối mặt bà ta, ôn hòa nói: “Thím Tư, cháu biết thím khó xử. Nhưng đừng nói hai năm, sợ rằng hai tháng hầu gia cũng không chịu được. Thím đừng trách chàng tàn nhẫn, thím nhớ lại hai chuyện tiền nong năm ấy đi.”
Tứ lão phu nhân chợt ngẩng lên, ngần ngừ hỏi: “Chuyện gì …?”
Minh Lan lẳng lặng nói: “Một là Hồng Tụ các, một là Vạn Thịnh tiền trang.”
Bỉnh nhị phu nhân đột nhiên ngẩng đầu, hét lên the thé: “Không sai. Hai chuyện đó do chồng tôi vạch trần, còn chỉ thẳng cậu Diệp làm, chẳng lẽ vì thế nên cậu ta ghi hận trong lòng! Cậu ta …”
Chị ta không nói tiếp được, vì ánh mắt Minh Lan lạnh tựa lưỡi đao bắn tới.
Minh Lan nhìn chằm chằm chị ta, gằn giọng: “Chuyện đó ai đúng ai sai, tôi không cần nói. Nhưng sâu xa thế nào, trời biết đất biết, cậu hai Bỉnh biết, còn có người khác biết. Nếu chị trong sạch vô tư thì hãy đến trước mặt Bồ Tát thề thốt cáo trạng cái loại dám làm mà không dám nhận ấy!”
Bỉnh nhị phu nhân chột dạ, chuyện trước xảy ra khi chị ta chưa vào cửa, nhưng chuyện sau chị ta biết rõ. Khi đó chị ta còn thầm hoan hỉ có người chịu tội thay, chồng mình vừa không mất tiền vừa không bị trách phạt.
Huyên đại phu nhân mở to mắt, chị ta không rõ chuyện, nhưng nghiền ngẫm hồi lâu cũng dần hiểu ra, ánh mắt nhìn Bỉnh nhị phu nhân tức thì càng lúc càng khinh bỉ.
Tứ lão phu nhân thầm thở dài, hai chuyện này bà ta cũng biết, dù lúc ấy không hiểu rõ nội tình, nhưng sau chậm rãi suy đoán thì còn gì mà không rõ. Hai cha con Tứ phòng hành động đích xác bỉ ổi, làm sao trách được Cố Đình Diệp ôm hận. Khi ấy chỉ biết bo bo giữ mình, không nói giúp Cố Đình Diệp, bây giờ sao dám đến yêu cầu người ta.
“Chẳng lẽ cứ như vậy kết thù?” Tứ lão phu nhân run giọng.
MInh Lan thở dài một hơi, ôn hòa khẽ khàng: “Chính vì không muốn kết thù cho nên mới phải tách ra. Hiện giờ hầu gia đang cơn tức, phải để chàng trút hết giận đã. Sau này năm rộng tháng dài, cháu chắt đều lớn, con cháu đầy sảnh … Dù sao một nét bút cũng viết không ra hai chữ Cố, Hầu gia tâm địa nhân hậu, sao lại ghi hận với con cháu chứ,”
Nàng vốn cũng không muốn giằng co với người vô tội, Cố Đình Huỳnh tuy là con gái của Tứ lão thái gia, nhưng nàng vẫn hy vọng nàng ta có thể suôn sẻ lấy chồng.
Nghe thấy hai chữ ‘con cháu’, Huyên đại phu nhân giật thót, cuộc đời này nàng ta chỉ lo cho ba đứa con trai. Thực ra trước đó Minh Lan đã hé lộ cho nàng ta biết: Cố Đình Diệp đang giúp con trưởng Cố Sĩ Cù của nàng vào Thiên vệ doanh. Sau này có chú dìu dắt, bản thân lại cố gắng, tương lai tốt xấu được bảo đảm. Có điều việc này hiện giờ đánh chết cũng không thể nói, không thì sẽ bị chi thứ tư mắng ‘ăn cây táo rào cây sung’, chờ sau khi ở riêng mới nên tuyên bố. Cũng chính vì vậy mà Cố Đình Huyên mới cảm thấy áy náy với cha và em trai, liều mạng chạy vạy khắp nơi.
Huyên đại phu nhân sớm nhận ra Cố Đình Diệp và bố chồng tích oán sâu đậm, nếu ở cùng nhau, cả ngày tranh cãi gây chuyện, Cố Đình Huyên phải giúp bên nào? Giúp bố, đắc tội Cố Đình Diệp, giúp Cố Đình Diệp thì bị chụp mũ bất hiếu.
Chi bằng tách ra, Cố Đình Diệp và Tứ lão thái gia không còn tiếp xúc, Cố Đình Diệp lại niệm tình cũ, chị ta thường xuyên qua lại với Minh Lan, ngược lại có thể nhận được giúp đỡ nhiều hơn. Cho nên ngay từ đầu, chị ta tán thành phân nhà ở riêng.
Sau cuộc nói chuyện này, Tứ lão thái gia có hồ đồ đến mấy cũng biết không thể lừa dối qua quýt được, giằng co thêm vài ngày, thấy thái phu nhân vẫn ‘ốm đau trên giường’ như cũ, không nói giúp cho chi thứ tư và chi thứ năm, ông ta đành phải từ bỏ ý đồ, xuống nước mở lời với các bô lão trong tộc rằng ông ta đồng ý chuyển đi.
Thế là chi thứ tư cũng bắt đầu bận rộn dọn dẹp gia vụ.
Vài chục năm ở chung, tiền nong cần chia rõ ràng, đầy tớ cũng phải chỉnh đốn lại, nên mang thì mang, nên để lại thì để lại. Nhất thời, phủ Cố vô cùng náo nhiệt.
Đương vào độ thu, không khí thoáng mát trong lành, cửa sổ rộng mở, Minh Lan tựa nghiêng trên gối mềm thêu mây, nâng chén canh ngân nhĩ tuyết lê đường phèn, múc từng thìa ăn, khóe miệng mỉm cười. Dù nàng chưa từng gặp Cố lão hầu gia, song nghĩ ngài ấy hẳn là người nhân hậu từ ái, cho nên mới đặt hai ông em trai dưới vây cánh bảo vệ, để đến tận hôm nay bọn họ vẫn còn ngây thơ ấu trĩ như thế. Hai ông chú này, người thì ngang ngược vô lại, nhất là với người nhà. Người thì tự cho là thanh cao, không lấm bụi trần.
Trong số họ hễ có một người khôn ngoan, thì tại lúc Cố Đình Diệp vùng dậy nên nghĩ làm thế nào tiêu tan hiềm khích khi trước, làm thế nào cẩn thận nhận lỗi, làm thế nào bình ổn ân oán quá khứ mới đúng. Bọn họ trái lại một mực ra vẻ bề trên, vừa muốn lợi dụng người khác, vừa muốn duy trì thể diện, kết quả là … Mồm to hơn nữa có tác dụng gì, Cố Đình Diệp thậm chí không cần động thủ, bọn họ đã không thể chịu nổi rồi. Đối diện với sức mạnh, những chiêu trò nhe nanh múa vuốt của họ thật yếu ớt.
Huống hồ, lần này yêu cầu chia nhà ở riêng, Cố Đình Diệp chiếm đầy đủ lý lẽ. Triều đình từ thời Tần, Hán, Nho gia đã chú ý xác lập ‘quyền lực tuyệt đối’. Lý luận này đặt ở cấp độ quốc gia có nghĩa là ‘trời không thể có hai mặt trời, nước không thể hai vua’, còn đặt ở cấp độ hậu duệ chính là quy định con trưởng dòng chính kế tục, đặt ở vấn đề hôn nhân chính là quy định một vợ một chồng nhiều vợ lẽ.
Cổ nhân thông qua vô số bài học xương máu, rõ ràng nhận thấy, một khi quyền lực tuyệt đối bị phân tán, như vậy kế tiếp sẽ không ngừng xảy ra phân tranh và phiền hà. Cho nên từ Hán Cảnh đế đến Hán Võ đế đều phải tước đoạt đất phiên, phân chia quyền lợi giữa anh em chú bác họ mười mấy lần, khiến cho bọn họ triệt để thành thật. Cho nên đàn ông cổ đại đa tình chủ động đặt ra quy định về thê thiếp, dùng quy củ lễ phép để ước thúc chính mình. Mọi việc trong nhà đều do bà cả quản lý, bọn họ thì yên tâm bôn ba bên ngoài, tránh cho trong nhà lục đục.
Việc ở riêng cũng tương tự, cha mẹ còn sống, con trai không cần ở riêng, bởi người cha đứng đầu gia đình có đầy đủ uy quyền để xử lý mâu thuẫn nội bộ. Anh cả còn sống, các em cũng không phải ở riêng, bởi có câu ‘anh Cả như cha’. Nhưng đến lúc ngay cả anh cả cũng qua đời thì sao đây. Khi người cháu trở thành gia chủ, nếu như các chú còn ở trong nhà, một khi xảy ra bất đồng ý kiến, dựa theo lễ pháp dòng tộc, người cháu có quyền quyết định. Nhưng dựa theo phong tục kính lão, thì người cháu cần tôn trọng ý kiến của các chú. Thế là quyền lực tuyệt đối sẽ bị phá vỡ, chuyện này hết sức tai hại đối với một gia tộc.
Vì vậy nếu Tứ lão thái gia vẫn khăng khăng không đi, thì chẳng những không được lễ pháp ủng hộ, thêm vào quyền thế hiện thời của Cố Đình Diệp, có thể nói, Tứ lão thái gia tất bại. Cố Đình Diệp thậm chí chả cần làm gì, chỉ cần thờ ơ lạnh nhạt là đủ.
Chân chính phiền phức là thái phu nhân. Bà ta luôn có danh tiếng rất tốt, cho dù có người hoài nghi bà ta có ý đồ xấu, nhưng chỉ cần bà ta lấy cớ dâu cả để khóc lóc kể lể, ra vẻ đáng thương, sợ con riêng đối xử lạnh nhạt, chèn ép ức hiếp, lại tận lực cầu xin các vị bô lão giữ lại hai ông chú mới là khó chơi.
“Việc mua bán này, chúng ta làm với vị kia trước, còn lại không thành vấn đề.” Gương mặt anh tuấn của Cố Đình Diệp hiện vẻ tối tăm khó dò, đôi mắt thẳm sâu như nước hồ, tuôn tràn vô tận lạnh lùng.
Chờ đợi từng ngày, ngóng trông từng khắc, đến tận khi thái phu nhân rút lui không quản việc này, tương đương với ngầm đồng ý. Lúc ấy, Cố Đình Diệp mới đề ra phân nhà ở riêng. Không cần tự tổn hại tám trăm, hắn cũng có thể đánh địch một ngàn.
hắn từ nhỏ tính tình cứng rắn dữ dằn, trần thế như cát, mài mòn từng bước trải qua biết bao khó khăn trắc trở mới chậm rãi mài nhẵn liệt hỏa sông băng thành vực sâu kiên nhẫn tới vậy.
“Tính em quá chính trực, chỉ sợ khó lòng phòng bị mánh khóe âm độ.” Hắn thủ thỉ bên tai nàng, ánh mắt trầm tĩnh tựa biển sâu, vừa thương xót vừa không đành lòng: “Lắm người, nhiều việc, đợi mấy hôm nữa xong hết những chuyện phiền toái này, em chậm rãi thanh lọc nhé.”
Minh Lan biết hắn đang lo lắng cái gì. Hắn lo không bảo vệ được nàng.
Lòng thoắt mềm lại, nàng duỗi tay ôm cổ, cọ sát vào bên má rậm rạp, ấm áp đến tận đáy lòng. Trên con đường trạch đấu, nàng không đủ thiên phú, còn càn phải học tập rất nhiều.