Thanh Lương ni sư người họ Phạm, con nhà thế tộc Giao Chỉ, xuất gia làm Ni ở Thanh Lương, không kể đồ mặc chỉ biết khổ hạnh, cốt lấy cần khẩn giải ngộ làm thông sướng; sư thường tập phép xước ngại, diện mạo giống như La Hán, tăng đồ xa gần đều kinh sợ coi là một vị Ni Sư ở đời; nhà của Sư thì cho tăng đồ làm chùa Hồng Vũ. Có Trần Tứ, tên là Huệ Thông Đại Sĩ ở núi Vọng Đông, một hôm bảo đồ đệ rằng:
– Ta muốn đem thân này thí cho hổ lang.
Một đêm đạo sĩ ngồi vào phiến đá nhỏ và tuyệt thực ba ngày; hổ lang đến ngồi quanh không dám đến gần. Tăng đồ khẩn xin đạo sĩ trở về am, mở cửa nhập định. Khi gần mất, Huệ Thông tập họp tăng đồ để thuyết pháp, nhân đó đóng cửa ngồi yên mà hóa, thọ hơn tám mươi tuổi. Trà Tỳ có cốt Phật Xá Lỵ rất nhiều, vì vậy có quan dựng tháp ở bản tự.
Trước kia Huệ Thông thường dặn đệ tử rằng:
– Sau khi ta chết, nên lấy xương ta cho thế gian rửa bệnh.
Đến lúc thu cốt, đệ tử không nỡ lấy chỉ bỏ vào hòm đậy lại; cách đêm bỗng thấy cái xương lớn để ở trên ghế ngoài hòm; chúng lấy làm lạ, cho là linh nghiệm.
Sau người nào có bệnh đến cầu đảo, đệ tử mài vào nước đem cho rửa, lập tức lành ngay; lời thề nguyền sâu xa đến như thế.