Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Lạp nguyệt mai hoa ngũ nguyệt huyên (1),
Mạn tương cảnh huống thuyết hàn huyên.
Hoàng chi bán chước liêu hương tứ,
Bạch phiến tần khai ức chủ ân.
Sứ tiết nghinh tường đương ngải diệp,
Chinh tiên khước tịch thắng bồ căn (1).
Thu lai quốc sự doanh thành hậu,
Nguyệt diễm quy chu ngọc mãn tôn.
Dịch nghĩa: Tết Đoan Ngọ ở đất khách Toàn Châu
Tháng chạp hoa mai tháng năm cỏ huyên,
Hãy đem cảnh huống nói chuyện hàn huyên.
Chén rượu vàng chuốc tạm khuây lòng nhớ quê,
Quạt trắng lần giở nhớ ơn chúa.
Cờ tiết của sứ đón điềm lành thay cho lá ngải,
Roi ngựa khước điều dở hơn cả rễ bồ.
Thu đến sau khi lo tròn việc nước,
Trăng đẹp thuyền về rượu đầy chén ngọc.
Chú thích
(1): Huyên: cỏ huyên, tương truyền ăn vào sẽ hết những buồn phiền lo lắng.
(2): Bồ: xương bồ, một vị thuốc mùi cay, khí ôn, có tính chất bổ tâm, ích khí, trừ phong. Người ta thường dùng ngâm rượu uống.
Tết Đoan Ngọ, người ta có tục treo cành bồ, cành ngải trong nhà để trừ tà và cầu phúc.
Hoài Anh dịch thơ
Mai tháng chạp, huyên tháng năm,
Mươn cảnh huống ấy giãi tâm sự này.
Nhớ quê rượu chuốc cho khuây,
Quạt lần mở, nhớ ơn dầy chúa thương.
Cờ tiết, ngải đón cát tường,
Khước tà, roi ngựa còn hơ rể bồ.
Việc nước tròn buổi sang thu,
Thuyền về trăng đẹp, rượu hồ đầy vơi.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.