Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Phiến phiến phong phàm độ thủy nhai,
Hồ trung Ngô Sở thủy phân kỳ.
Biển chu nguyệt ám nga mi ảnh,
Tùng trúc yên ngưng ngọc lệ chi.
Thảo thụ tích mê Vân Mộng (2) liễn,
Hoàng kim danh lặc Nhạc Dương bi.
Quân sơn thập nhị kinh qua hậu,
Hồng quất phân cam dẫn tửu chi.
Dịch nghĩa: Qua hồ Động Đình
Từng mảnh buồm gió qua vùng nước,
Trong hồ, nước chia đôi miền Ngô Sở.
Thuyền nhỏ trăng tối bóng mày ngài,
Trúc bụi khói đọng, như cành lệ ngọc.
Cây cỏ dấu mờ xe liễn ở Vân Mộng,
Tên vàng khắc trên bia Nhạc Vương.
Sau khi đi qua Quân sơn mười hai ngọn núi,
Quýt đỏ chia ngọt bùi để dẫn chén rượu.
Chú thích
(1): Động Đình Hồ: nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc.
(2): Vân Mộng: tên một cái đầm ở Hồ Nam.
Hoài Anh dịch thơ
Buồm qua vùng nước mênh mông,
Giữa hồ Ngô Sở một dòng chia hai.
Thuyền trăng tối, bóng mày ngài,
Cành lệ ngọc: khói sương ngoài lùm tre.
Cỏ mờ Vân Mộng dấu xe,
Chữ vàng tên khắc bia đề Nhạc Dương.
Qua mười hai ngọn Quân sơn,
Ngọt ngào quýt đỏ đưa hương rượu nồng.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.