Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Tả Giang binh bị đạo đài sư,
Kiếm bội kiên tương thị vũ nghi.
Bào giản trường lưu Nùng tử (1) hận,
Côn sơn vĩnh lặc Địch Thanh (1) bi.
Thành phân trĩ điệp lâm thiên tế,
Ốc xuyến thiền liên bạng thủy nhai.
Dạ nguyệt giang đình yết tân khách,
Long quang dao xạ Phục Ba từ.
Dịch nghĩa: Ghi cảnh đẹp Nam Ninh
Dinh quan đạo đài Tả Giang binh bị,
Gươm dàn rổn rảng tỏ ra nghi vệ hàng võ.
Hồ suối chảy dài mãi hận của Nùng Trí Cao,
Núi Côn khắc lâu dài bia Địch Thanh.
Thành chia ra vọng gác cao ngất trời,
Nhà liền dẫy đến gần bến nước.
Đêm trăng đình bên sông đãi tiệc tân khách,
Ánh sáng xa chiếu đền Phục Ba.
Chú thích
(1): Nùng Từ là Nùng Trí Cao và Địch Thanh là hai danh tướng trong sử Trung Quốc.
(2): Phục Ba từ: đền thờ Mã Viện, tướng nhà Hán – Trung Quốc, được phong Phục Ba tướng quân.
Hoài Anh dịch thơ
Tả Giang binh bị đạo đài,
Gươm đàn rổn rảng thị oai võ thần.
Hận Nùng tử nước cuốn dần,
Bia Địch Thanh dựng chần vần non Côn.
Thành chia vọng gác chon von,
Nhà kề mép nước ngói son chuỗi liền.
Đình sông tiệc khách trăng in,
Ánh long quang chiếu tới đền Phục Ba.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.