Đăng Hoàng Hạc lâu tác

Nguyên tác chữ Nho (*)

Phiên âm

Hoàng Hạc lâu đầu tượng ngoại khoan,

Hán Dương thành quách nhiễu tình lan.

Lã tiên túy hậu trùng lai diểu,

Thôi Hiệu (1) thi thành tái họa nan.

Tràn mộng vị tinh thanh thảo bạn,

Hương tâm mỗi ký bạch vân đoan.

Hàn phi tích cổ Viêm (2) tưu viễn,

Nhân cảnh tao phùng hữu thử quan.

Dịch nghĩa: Lên lầu Hoàng Hạc làm

Ngoài lầu Hoàng Hạc cảnh tượng rộng lớn,

Làn sóng lúc trời tạnh quấn quanh thành quách Hán Dương.

Tiên Lã Đồng Tân sau khi say không biết có trở lại nữa không,

Thơ Thôi Hiệu đã đề họa lại khó.

Mộng trần chưa tỉnh, bãi cỏ xanh,

Lòng quê mỗi lần gửi làn mây trắng.

Cánh hạc bay tích xưa, cõi Viêm bang hẻo lánh xa xôi,

Người và cảnh gặp gỡ, nên có cuộc tham quan này.

Chú thích

(1): Thôi Hiệu (?-754): nhà thơ lớn đời Đường, nổi tiếng với bài Hoàng Hạc lâu.

(2): Viêm bang là tên riêng người Trung Quốc gọi nước Việt thời bây giờ, do nước Việt nằm ở phương Nam là xứ nóng.

Hoài Anh dịch thơ

Trước lầu cảnh tượng rộng thay,

Hán Dương thành quách nước mây bốn bề.

Say xong tiên Lã không về,

Họa thơ Thôi Hiệu phẩm đề, khó sao!

Mộng chưa tỉnh, cỏ xanh màu,

Gửi theo mây trắng nỗi sầu quê hương.

Chốn cổ tích xa Viêm bang,

Người may gặp dịp xem quang cảnh này.


(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!