Luận võ nghệ tráng sĩ luyện tinh thần
Khảy tỳ bà tiểu thơ đờn phụng khúc
Khi tiểu thơ trở vô tới thơ phòng, thì trong lòng hãy còn hồi hộp, rồi nghĩ đến sự chim bạch yến bị tan xương nát thịt dưới một vấu chưng con diều kia mà không ai cứu tử hoàn sanh, thì lại càng đau lòng thê thảm. Sự ấy nó làm một gương dữ tợn mà dọi ngay nơi lòng tiểu thơ, đặng mà nhắc tiểu thơ nhớ lại sự mà thằng cường bạo hôm nọ, nếu chẳng có Đông Sơ cứu mạng thì trong nháy mắt cũng bị hại như con chim bạch yến ngày nay đó vậy. Nghĩ như vậy chừng nào lại càng tư tưởng Đông Sơ chừng nấy.
Bởi vậy nên cái mối duyên nợ nó càng ngày càng ràng buộc tấm lòng thương, còn con sóng ân tình nó cũng càng ngày càng tràn trề nơi biển ái.
Cách ít bữa tiểu thơ và thể nữ dắt nhau ra lương đình, xem trăng hứng mát. Nguyên chỗ lương đình nầy là một chỗ cảnh tình thanh lịch, gió mát trăng trong, chung quanh có trồng đủ các thứ hoa, nào là mẫu đơn thược dược đỏ trắng xen hàng, nào là vạn thọ tường vi, xanh vàng ửng sắc, bên thì mấy cụm trúc nó lao rao tiếng quyển; bên thì mấy nhành đào nó đỏng đảnh đưa duyên, phía trước thì thấy do de mấy bụi tóc tiên, dây thì vấn theo sơn ly, dây thì vấn theo cửa sổ, bông hoa đà đuột, hình như Tây thi mê giấc, mà trâm chuỗi bỏ lòng thòng, nhánh lá phất phơ, dường như thục nữ sầu ai, mà tóc tai cài dã dượi.
Còn phía trong lương đình thì có đủ văn phòng tứ bửu, liễn cẩn màn thêu, chén bạc dĩa vàng, ghế bàn tinh khiết. Trên vách có treo một mặt Tỳ bà, vành ốc xoa cừ, đầu vơi ngậm tụi. Kế đó lại có treo một tấm tượng nhứt họa nhứt thi, vẽ hình yêu ly đương đâm Khánh kỵ.
Khi tiểu thơ và thể nữ đi thơ thẩn theo mấy vòng hoa, rồi vô lương đình ngồi dựa cửa sổ, thấy một cái bông tường vi với phù dung đương đưa qua phất lợi, dường như nó ngả ngớn giỡn trăng, và run rẩy băng xăng, dường như nó ngẩn ngơ cười gió, rồi thấy cung trăng lấp ló, trong mấy lùm mây, ẩn ẩn tàng cây, và giọi ngay cửa sổ, tợ hồ nàng Hằng Nga ở nơi nguyệt điện, thấy tiểu thơ ngồi đó, mà lấp ló dòm chơi, đặng sánh sắc so hình, coi ai đẹp xinh cho biết.
Tiểu thơ thấy trang thanh gió mát, thì xúc cảnh quang tình, chẳng lẽ làm thinh, bèn ngâm chơi ít vận.
Ngâm thơ như vầy:
Tơ tóc lăng xăng mối sự tình,
Bên trời vặc vặc bóng trăng thinh.
Thuyền quyên sóng sắc đào trên nhánh,
Quân tử phơi hình trúc dựa ranh.
Sương đọng cỏ, đeo châu trắng trắng,
Gió đưa mành xụ liễu xanh xanh.
Hải đường ngơ ngẩn còn phong nhụy,
Chưa khứng cho ai bẻ một nhành.
Ngâm rồi day mặt ngó qua Tây Viên. Bỗng thấy một người phăng phăng đi tới, lưng mang gươm, tay cầm một ngọn roi, quất bốp bốp trên đôi vỏ hài và đi và hút gió. Chừng đi gần tới thì tiểu thơ mới biết anh mình là Bạch Xuân Phương, bèn vội vã bước ra chào hỏi. Xuân Phương và tiểu thơ trở vô ngồi nơi ghế. Thể nữ lật đật bưng trà cho công tử uống. Tiểu thơ day lại hỏi rằng: “Thưa anh, chẳng biết anh đi đâu về khuya vậy?”
Công tử nói: “Anh đi thao luyện võ nghệ bên Tây Viên về, thấy em ở lương đình, nên ghé lại chơi và hứng mát luôn thể.”
Tiểu thơ thấy anh vui vẻ thì kiếm chuyện đàm đạo và hỏi rằng: “Thưa anh, em có nghe người ta thường nói, hễ lúc thái bình thì yễn võ tu văn, còn cơn bát loạn mới yễn văn tu võ. Chớ như nay triều Nguyễn đức Gia Long đã trung hưng phục nghiệp, nhứt thống san hà, Nam, Bắc và Trung kỳ, lê dân đều an cư lạc nghiệp, vậy lúc nầy là lúc yễn võ tu văn, mà sao anh hãy còn tập rèn võ nghệ làm chi cho mệt nhọc? Vả lại trong bốn năm nữa mới có một kỳ võ khoa, thì từ đây tới đó còn xa, anh cần chi tập luyện mỗi ngày, tôi e nhọc nhằn vô ích.”
Công tử nghe nói thì mỉm cười mà đáp rằng: “Số là em chưa rõ, để qua nói cho em nghe. Sự tập luyện võ nghệ nầy chẳng những là làm cho huyết mạch đặng sung túc châu lưu cả và tứ chi, và các đường gân cốt đặng nở nang mạnh mẽ, mà lại làm cho tráng kiện tinh thần, cho mở mang trí thức hơn nữa; và làm cho những sự biếng nhác dật dờ, trở ra siêng năng chẩm hẩm, tinh thần liệt nhược, trở ra phấn chấn hùng hào, làm cho các bệnh hoạn ít đến mà cảm xúc xâm nhiễm vào mình , và đặng trở ra khương ninh trường thọ.
Vậy qua nói tắt một lời sự thao luyện võ nghệ ấy nó làm cho con người đặng tráng kiện cân đối tinh thần; cũng như vật thực kia làm cho bổ dưỡng tráng kiện thân thể vậy, chớ chẳng phải như bọn liệt nhược tinh thần, quần áo xùng xình, móng tay đà đuột, chẳng biết cử động tứ chi, chẳng biết thao luyện thân thể, để cho gân teo thịt bủng, bộ tướng giống cò ma, vóc yếu mình gầy, hình thù như mèo ướt, dẫu ai phun nước miếng trên mặt cũng chẳng dám hờn, ai đánh trên lưng cũng chẳng dám giận. Bởi vậy nên qua mới tập luyện cho mạnh mẽ tinh thần, dẫu chẳng ra mà tá quốc an bang, công thành đoạt trại, thì ở nhà cũng có sức mà chống cự với đứa côn đồ, và trừ đặng quân thù kẻ nghịch, sao mà em gọi rằng vô ích?”
Tiểu thơ nói: “Ấy là tánh anh phòng lo như vậy đó thôi; chớ tôi tưởng nhà mình là nhà đại gia binh bộ, tước trọng quờn cao, bộ hạ gia đinh, nó tiền hô hậu ủng, nào ai dám kết oán gây thù mà anh phải nhọc lòng nghi ngại?”
Công tử trợn mắt ngó tiểu thơ và nói: “Thế em quên rồi sao? Kẻ nghịch thù với nhà ta là Võ Đông Sơ đó chớ ai, em lẽ nào không nhớ? Qua nói thật qua với Võ Đông Sơ cũng như Yêu ly với Khánh kỵ trong tấm tường treo nơi vách nầy vậy. Yêu ly giết Khánh kỵ rồi thì mới an lòng; còn qua giết Đông Sơ rồi thì mới đành dạ.”
Nói rồi từ giã tiểu thơ, bước ra khép cửa lại mà trở về tư thất.
Lúc nầy Võ Đông Sơ đương đứng ngoài hoa viên, có ý chờ cho Thu Hà ra đặng mà tỏ ít lời tâm sự, xảy nghe Xuân Phương buông lời thù hận, thì cái lửa giận nó đã lừng lẫy phừng gan, liền rút gươm ra, muốn xốc vô lương đình mà giết quách Bạch Xuân Phương cho rãnh, nhưng tự nghĩ rằng: nếu mình cùng Xuân Phương vì một chút cừu riêng mà gây ra việc sống chết phi lý như vậy. Thì sao cho khỏi mích dạ Thu Hà, thì việc mình muốn gá nghĩa lương duyên cùng nàng, e cũng khó bề xe tơ kết tóc, nghĩ vậy liền dừng chơn đứng lại, và nhẫn khí hàm thinh, rồi trở ra đứng dựa bụi phù dung đặng chờ dịp gặp tiểu thơ mà tỏ lời hơn thiệt.
Còn tiểu thơ nghe anh nói như vậy, thì lại càng dàu dàu sắc mặt, bối rối tơ tình, không biết phương thế chi mà khuyên giải anh mình cho nguôi lòng oán hận.
Thể nữ thấy tiểu thơ ngồi buồn, thì kiếm điều khuyên giải mà nói: “Thưa cô, trong lúc canh khuya đêm tịnh, gió mát trăng trong nầy, sao cô không đờn một ít bài chi mà giải khuây, nỡ để ngồi không, cho canh tàn đêm tụn, thế thì cũng uổng.”
Tiểu thơ nghe nói thì day lại mà biểu rằng: “Vậy thì con hãy lấy cây tỳ bà lại đây.”
Thể nữ lật đật lấy rồi trao cho tiểu thơ. Tiểu thơ bèn vặn trục lên dây, rồi đờn một bài tương tư gọi là Phong quang hảo điệu.
Cái giọng đờn ấy tiếng ti tiếng nhỏ, lúc nhặt lúc khoan, cái giọng tích tịch tồn tang, dường như ai khóa ai than nghe rất tiêu tao thê thảm.
Ấy là:
Khúc đờn Tư mã hoàng cầu,
Nghe ra như oán như sầu với ai!
Lúc nầy Võ Đông Sơ đương đứng ngoài hoa viên, muốn bước tới lương đình, đặng cạn tỏ với tiểu thơ ít lời tâm sự. Song cửa lương đình đều đóng chặt, vì vậy nên phải đứng đợi ngoài hoa viên. Bỗng nhiên nghe cái tiếng đờn thâm trầm tao nhã ấy nó vẳng vẳng lọt vào tai, làm cho Đông Sơ mê mẩn tâm thần, dường như hồn tiêu phách lạc. Nghe rồi thì biết khúc đờn ấy là đờn bài Phong quang hảo.
Nguyên Đông Sơ tuy là văn nho võ sĩ, song cũng đứng bực tài nữ phong lưu, nên khi nghe tiểu thơ đờn tới mấy câu tao nhã tuyệt diệu ấy, thì xúc động tâm tình, rồi đứng dưới bụi phù dung, ca bài Phong quang hảo đó như vầy:
Ôi nhơn duyên, ôi nhơn duyên!
Nhìn mái lương đình cảnh tợ tiên.
Chạnh tình riêng.
Tương tư mấy khúc cung đờn dập,
Hơi cao thấp,
Khiến kẻ bên hoa bấn ruột phiền,
Hỡi thuyền quyên!!
Tiểu thơ nghe tiếng ca ngâm văng vẳng ngoài hoa viên, thì thôi đờn mà nói với thể nữ rằng: “Con hãy nghe coi ai ca ngâm ở đâu vậy?” Thể nữ lật đật lại vạch cửa sổ ngó thấp thố ra hoa viên, song chẳng thấy ai hết, thì nói: “Thưa cô, không có ai hết.” Tưởng tiếng ca ấy ở ngoài đường, chớ chẳng phải trong hoa viên.
Tiểu thơ cũng hồ nghi, nhưng không biết ai, song nghe câu ca thì dường như có ý vị thâm trầm, chắc là những bọn trộm phấn buôn hương nào đây, nó thấy mình trong lúc canh khuya đêm vắng, nên nó thả giọng bướm lời ong, mà trêu hoa ghẹo nguyệt đó chăng? Nghĩ vậy bèn biểu thể nữ đóng mấy cửa sổ lại rồi lấy đờn mà đờn nữa.
Đông Sơ nghe đờn thì ca thêm một bài nữa như vậy:
Ôi trăng thinh, ôi trăng thinh!
Soi thấu cho ta mấy đoạn tình,
Giữa trời thanh,
Bên tường mỏi mắt năm canh nguyệt,
Lòng tư thiết.
Biết có ai thương tới phận mình.
Nỡ làm thinh?
Cái tiếng ca ngâm thanh thao êm ái nầy nó thỉnh thoảng lọt vào tai tiểu thơ, rồi lần lần thấm vào gan ruột, làm cho tiểu thơ cảm động tình thương, liền buông đờn mà ngồi sững, rồi day lại kêu thể nữ và nói rằng: “Lạ thay cái tiếng ca ngâm này ta nghe thỉnh thoảng gần đây, thật là văn tứ thâm trầm, tình từ tao nhã, sao mi gọi là ngoài đường cũng lạ, mà ai vậy?”
Thể nữ nói: “Vậy thì xin cô bước lại cửa sổ dòm coi, ai dám cả gan vào hoa viên trong lúc canh khuya đêm vắng.”
Tiểu thơ liền bước lại cửa sở vạch màn, ló mắt dòm ra. Lúc nầy Đông Sơ đương đứng duối bóng tối bụi phù dung ngó vô. Bỗng thấy tiểu thơ ló mặt dòm ra, trên thì bóng trăng giọi xuống, làm cho Đông Sô thấy rõ ràng tiểu thơ, mặt mày như tiên nữ hạ bồng lai, cách điệu như Hằng Nga ly nguyệt điện, làm cho Đông Sơ mắt ngó chăm chăm và đứng trơ trơ như tượng gỗ.
Còn tiểu thơ thì rảo mắt kiếm coi, khi ngó tới bụi phù dung, bỗng thấy một người đứng trơ, y cân hoa mỹ, tướng mạo trang nghiêm, khiến cho tiểu thơ dựa cửa mà sững sờ, ngó không nháy mắt. Lúc nầy cũng như Điêu Thuyền với Lữ Bố, kẻ liếc mắt, người đưa tình, mường tượng Phụng Nghi đình một thứ vậy.