Gia Long tẩu quốc – Hồi thứ tư

ĐỨC NGUYỄN ÁNH TỴ NẠN THỔ CHÂU,

NGUYỄN HỮU THOẠI DU THÁM SƠN ĐỘNG

Đây nói về một đội quân Tây Sơn ở Rạch Mân Thít qua tới Cần Thơ, nghe Đức Nguyễn Ánh và cung quyến đã chạy qua Rạch Giá; tức thì đem binh rượt theo, khi đi ngang qua rừng tràm, thình lình nghe hai bên rừng ré lên một tiếng dậy đất vang trời, đội quân Tây Sơn hoảng kinh, vừa muốn kéo nhau thối lại, thì hai bên rừng tên bắn tuông ra như mưa; quân Tây Sơn bị thương rất nhiều, liền kéo nhau chạy đùa trở lại.

Bỗng thấy một toán quân thình lình trong rừng rần rần nhảy ra, áp tới hỗn chiến một trận rất kịch liệt, quân Tây Sơn lớp bị thương, lớp bị tên, nằm dọc theo mé rừng chết thôi lễnh nghễnh.

Toán quân nầy là của Đức Nguyễn Ánh để phục nơi rừng tràm đặng phòng ngừa quân giặc. Tướng ngài là Lê Văn Quân lãnh toán quân ấy làm hậu đội, để theo hộ vệ ngài trong lúc hành trình, nên khi thấy quân Tây Sơn rượt theo, thì nhảy ra cản cự.

Khi Đức Nguyễn Ánh và cung quyến của ngài đi gần được nửa đường vô Rạch Giá, bỗng thấy ba người cỡi ngựa chạy theo, ngài liền dừng ngựa lại xem, thấy ba người ấy là Châu Văn Tiếp với hai tên quân nhơn đã chạy tới, ngài có ý kinh nghi, và hỏi rằng:

 – Khanh có việc chi cẩn cấp báo cho ta hay chăng?

Châu Văn Tiếp liền xuống ngựa lại cúi đầu thi lễ, rồi nói rằng:

 – Bẩm Điện hạ, có việc cẩn cấp, nên tôi lật đật bôn tẩu về đây, đặng thông tin cho Điện hạ rõ.

Nói rồi liền đưa cái thơ đã lấy trong mình tướng giặc Bùi Khắc Phú mà dâng lên cho ngài xem.

Đức Nguyễn Ánh liền lấy thơ dỡ ra, xem rồi có sắc kinh ngạc mà hỏi rằng:

 – Thơ nầy của Nguyễn Huệ gởi cho Bùi Khắc Phú mà sao nhà ngươi bắt đặng?

 – Bẩm Điện hạ, Bùi Khắc Phú nầy là một đứa tham dâm háo sắc, kiếm chước hãm hại vu oan cho cha một nàng gái kia ở Long Xuyên, làm cho cha nàng ấy phải bị giam nơi ngục đường, rồi ban đêm đến nhà làm sự cường dâm cùng nàng, tôi dọ biết sự tàn ngược của nó, nên giết nó mà cứu cha con nàng gái ấy, trong khi tôi giết nó rồi xét trong mình nó đặng một phong thơ, thấy tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ nói rằng trong ba ngày nữa, thì đem binh qua Cần Thơ và vô Rạch Giá mà truy tấm Điện hạ, nên tôi phải vội vã trở về thông tin cho Điện hạ rõ, đặng lo tầm phương lánh nạn cho sớm, nếu để đạo binh của Nguyễn Huệ rượt theo, thì chúng ta khó bề chống lại.

Đức Nguyễn Ánh nghe thì ngẫm nghĩ một hồi, rồi nói với các tướng sĩ rằng:

 – Vậy thì chúng ta phải lập tức qua Cà Mau mới đặng, nói rồi liền dắt cung quyến và các tướng tùy tùng băng theo đừng rừng mà đi, còn Châu Văn Tiếp trở lại hiệp với đạo binh Lê Văn Quân, ở sau đặng dọ thám binh tình của giặc.

Nguyên soái Tây Sơn là Nguyễn Huệ đương ở Vĩnh Long nghe tin Đốc binh là Bùi Khắc Phú bị giết tại Long Xuyên, tức thì đem binh qua Cần Thơ rồi sai một tướng Long Xuyên thế cho Bùi Khắc Phú, còn đạo binh Nguyễn Huệ phân làm hai toán, một toán sai vô Rạch Giá và một toán tuốt qua Cà Mau, đặng rượt theo Đức Nguyễn Ánh mà bắt.

Thảm thay cho Đức Nguyễn Ánh, cùng cung quyến của ngài, ban ngày thì băng đồng lướt bụi, dải nắng dầm mưa, đi quanh lộn trong đường rừng, bất kể chông gai, không nài lao khổ, phía trước có một tốp Cao Mên dẫn nẻo đem đường; phía sau có một đội quân nhơn tùy tùng hộ tống, ban đêm thì kiếm chỗ gò cao khoảng rộng ngơi nghỉ, rồi sai quân đốn cây làm sàng để cho cung quyến ngài nằm. Còn ngài và các tướng sĩ, thì trải chiếu trên đất mà ngủ. Thật là ngàn trùng gian hiểm, quản bao gối tuyết mền sương, muôn dặm quan hà, cậy có màn trời chiếu đất.

Các tướng sĩ thấy vậy không nỡ, bèn nói với ngài rằng:

 – Bẩm Điện hạ, xin Điện hạ hãy lên nằm trên sàng, nếu nắm dưới đất, e hơi thấp khí nổi lên mà sanh điều bịnh hoạn.

Đức Nguyễn Ánh nghe nói thì đáp rằng:

 – Các khanh vì ta mà phải bôn nam tẩu bắc, cực khổ gian nan, thì ta nỡ lòng nào nằm chiếu nằm sàng, để cho các khanh nằm rơm nằm đất? Xin các khanh chớ ngại.

Nói rồi bảo quân nhơn canh giữ bốn phía chung quanh, và đốt mấy đống lửa cháy lên cho sáng, đặng loài độc trùng ác thú thấy thì chẳng dám léo hánh lại gần, cái cảnh ngộ gian nan cực khổ nầy chẳng biết bao nhiêu mà kể cho xiết.

Khi tới Cà Mau, Đức Nguyễn Ánh và các tướng kiếm chỗ để cho cung quyến đình trú xong rồi, liền sai các bộ hạ tâm phúc đi các nơi thám thính quân giặc, nhứt diện, lại lo cụ bị nghe thuyền sẵn sàng, đặng phòng khi quân giặc rượt theo, thì đem cung quyến xuống thuyền mà vượt biển.

Khi Nguyên soái Tây Sơn là Nguyễn Huệ ở Cần Thơ, nghe tin tức Đức Nguyễn Ánh chạy xuống Cà Mau, liền phân binh làm hai đạo, một đạo đi đường bộ thẳng xuống Cà Mau, một đạo đi đường sông, thẳng vào Ba Thắc, hai đạo binh lướt dặm băng ngàn ngày đêm rượt theo Đức Nguyễn Ánh mà tập nã.

Bữa nọ, Đức Nguyễn Ánh đương ngồi bàn nghị quốc sự với các tướng sĩ, xảy có hai tướng ngoài cửa bước vô, cúi đầu rồi báo tin rằng:

 – Bẩm Điện hạ có một đạo binh giặc đã tới Bạc Liêu, và một đạo nữa đã tới Cà Mau địa phận.

Đức Nguyễn Ánh nghe tin giặc rượt theo, thì nhíu mày rồi nói với các tướng sĩ rằng:

 – Ta nay đã cùng đường yếu thế, không sức đủ mà chống nổi quân giặc, đương lúc thế mạnh binh cường, ta thầm trách cho phận ta, gặp buổi nước loại thời quai, lưu ly điên bái, làm cho các tướng sĩ phải nhọc lòng vì ta, mà chịu cực khổ gian nan, dầm mưa dãi nắng như vầy, thì lòng ta rất cám cảnh ngậm ngùi, không sao ngớt đặng.

Các tướng sĩ nghe ngài nói thì cảm động mà đáp rằng:

 – Xin Điên hạ yên tâm, dẫu cho vạn khổ thiên lao thế nào, chúng tôi cũng nguyện trải mật phơi gan, liều sanh trí tử mà giúp đỡ Điện hạ cho hết sức hết lòng, xin cho Điện hạ thể tráng thân cường, đặng mà lo việc nước nhà trong cơn hoạn nạn.

Kế Nguyễn Văn Thành bước ra nói với Đức Nguyễn Ánh rằng:

 – Bẩm Điện hạ cái cảnh ngộ gian nan nầy là trường học của các đứng anh hùng, để mà tập luyện chúng ta cho dạn dĩ tâm thần, và mạnh mẽ khí phách. Xưa nay những bực anh hùng hào kiệt, thì đều phải trải qua chẳng biết bao nhiêu lúc thời quai vận bỉ, đó là một chỗ cao đẳng học đường, ai có vào cái cao đẳng học đường nầy rồi, sau mới đặng lãnh một cấp bằng danh dự anh hùng và mới đặng gánh một trách nhậm to tác của Đế vương sự nghiệp. Nay Điện hạ muốn gánh vác một trác nhậm của Đế vương sự nghiệp mà làm như Quan Võ Trung Hưng thuở xưa, như vua Lê Thái Tổ dựng nghiệp lúc trước, thì chúng ta dẫu nát thịt tan xương cũng theo phò giúp Điện hạ cho hoàn toàn nghĩa vụ.

Đức Nguyễn Ánh nghe nói thì sắc mặt tỏ ra có vẻ hân hoan, rồi ngó các tướng mà đáp rằng:

 – Ta rất cảm ơn các tướng sĩ, xin hãy ráng tận tâm kiệt lực cùng ta, ngày kia may mà được khôi phục san hà, thì các người đều đứng bực công thần đệ nhứt trong nước.

Nói rồi liền truyền các tướng sắm sửa ghe thuyền đặng vượt biển qua cù lao Thổ Châu mà tỵ nạn. Vì quân giặc nay mai sẽ tới đây, chúng ta chẳng nên trì hưỡn.

Các tướng vâng lịnh, sắp đặt mười chiếc thuyền sẵn sàng, mỗi chiếc đi chừng hai mươi người, buồm, chèo, lương, phạn đều đủ.

Đức Nguyễn Ánh và các tướng sĩ cơm nước xong rồi, ngó ra thì trời đã tối, cả thảy vội vã kéo nhau xuống thuyền, Đức Nguyễn Ánh và cung quyến ngài, đi hai chiếc thuyền lớn ở giữa, còn bốn chiếc đi trước dẫn đường, và bốn chiếc đi sau hộ tống, cứ theo ngọn sông ông Đốc đi ra.

Khi đi đặng một khúc sông, bỗng thấy mây giăng mờ mịt, rải rắc mưa tro, hai bên chỉ thấy cỏ rậm rừng hoang, không có xóm làng nhà cửa ai hết, trong lúc đêm khuya tịch mịch, chẳng nghe chi lạ hơn, là những tiếng chim mèo ó ré, giọng ục kêu tân, giặc muỗi dấy lên ồ ồ, nghe kêu như ong vò vẻ, một lát lại nghe hai bên mé rừng, cọp kêu cà-um dậy đất, dường như nó thầy thuyền Đức Nguyễn Ánh, thì rủ nhau áp ra hai bên mé sông, đặng mà đón ngăn chào hỏi.

Thuyền Đức Nguyễn Ánh đi đặng một đỗi nữa, khi ra gần tới cửa biển, có hai con sấu rất to, nổi lên trước mũi thuyền của ngài, mỗi con lớn và dai như chiếc ghe lường, cất đầu lên cao, rồi đập đuôi xuống nước đùng đùng, làm cho nước văng lên trắng giả, và cứ cản ngang trước thuyền, dường như không muốn cho thuyền của ngài đi tới.

Đức Nguyễn Ánh lấy làm lạ, bảo day thuyền tránh qua phía khác mà đi, song thuyền tránh phía nào thì sấu cứ theo trước mũi thuyền cản mãi.

Các tướng sĩ thấy vậy bất bình, người lấy chĩa ra muốn đâm, kẻ vác súng ra đòi bắn.

Lúc bấy giờ có Trịnh Hoài Đức là người văn sĩ tin cậy của Đức Nguyễn Ánh ra cảm, không cho các tướng sĩ bắn, và nói với ngài rằng:

 – Bẩm Điện hạ, sấu là một giống Ngạc ngư rất dữ trong loài thủy tộc, nay thuyền ta mới khởi hành, mà gặp giống ấy cản trở, thế thì cũng có một điềm gì lạ đây, tôi e quân giặc nó đón ngăn ngoài cửa, vậy xin Điện hạ hãy bảo đình thuyền, để sáng mai sẽ đi, cũng không sao phòng ngại.

Đức Nguyễn Ánh liền bảo các thuyền đình lại, đậu dọc theo ngọn sông ông Đốc mà nghỉ, chờ sáng sẽ đi, các tướng ở tiền đội cũng nói rằng trong khi thuyền đi, thấy một bầy sấu, cản ngăn trước mũi, ấy cũng là một điềm rất quan hệ trong lúc hành trình.

Khi các thuyền đậu lại, sấu đều lặng ngấm xuống nước, không con nào nổi lên vơ vẩn trước mũi thuyền như khi nãy vậy, chẳng bao lâu kế trời vừa rựng sáng, các tướng sĩ cơm nước xong rồi, liền trương buồm bọc gió chạy ra cửa biển, nhắm cù lao Thổ Châu thẳng tới. Bỗng gặp hai chiếc thuyền chài đương đánh cá theo mé biển Rạch Giá, nói rằng: Trong đêm ấy có một đạo thuyền của giặc Tây Sơn, rảo lại chạy qua trước cửa biển Cà Mau rất nhiều, đặng tìm đón thuyền ngài mà bắt.

Đức Nguyễn Ánh nghe nói, có vẻ kinh nghi và hỏi rằng:

 – Các ngơi bây giờ có biết đội chiến thuyền của giặc ở đâu chăng?

Mấy người thuyền chài đáp rằng:

 – Bẩm ngài, chúng tôi thấy thuyền giặc hồ canh tư, đã kéo nhau chạy về hướng cù lao Côn-nôn còn một đội thì chạy lên của Ba Thắc (Bassac).

Đức Nguyễn Ánh day lại nói với Trịnh Hoài Đức rằng:

 – Thật quả như lời khanh đã nói chẳng sai.

Các tướng sĩ nghe nói rất mừng, liền bước tới trước mặt Đức Nguyễn Ánh, và nói rằng:

 – Chúng tôi xin kính mừng cho Điện hạ thoát khỏi quân giặc Tây Sơn, ấy cũng bởi cái hồng phước của Điện hạ còn nhiều, nên khiến cho đêm nay sấu cản thuyền ta, chẳng cho ra cửa, nếu chẳng có sự ngăn cản ấy, thì chúng ta đã bị quân Tây Sơn đón bắt, vậy thì cái mạng của Điện hạ rất lớn, nên có trời phật phò trì, quân giặc không thế nào hại đặng.

Đức Nguyễn Ánh nghe nói thì sắc mặt có vẻ hân hoan, và đáp lại rằng:

 – Thật cũng nhờ trời phật phò trì, mà cũng nhờ công tướng sĩ hết lòng ủng hộ.

Khi thuyền bọc gió ra khỏi, ngó qua bốn hướng, chỉ thấy trời nước minh mông, thật là một cái thế giới của Đông Hải Long Vương, gió lặng sóng êm, xem trên mặt biển như trải một đường lụa trắng, ngó lại hướng Đông, thấy vài cù lao nhỏ nhỏ, sườn núi khum khum, cái thì cây cỏ xanh dờn, cái thì hình như một con rùa rất to, ló cỏ phơi lưng, nằm trên mặt biển chần ngần, đối với cảnh trời ban mai, một ánh dương quang dọi ra nửa vàng nửa đỏ, ấy là một cái cù lao tục kêu là Hòn Tre (Jle de Tortue) và một cái kêu là Hòn Rái, ở gần mé biển Rạch Giá.

Các thuyền của Đức Nguyễn Ánh vượt biển, gặp lúc trời êm gió thuận, chạy đi chẳng đầy một ngày, bỗng thấy trước mũi thuyền một cái cù lao mù mù, nổi lên giữa biển, thật là nước bích non xanh, xem như một chỗ Bồng Lai tiên cảnh.

Các tướng sĩ đều mừng rỡ la lên và nói:

 – Tới rồi, tới rồi, cù lao Thổ Châu ở trước mắt chúng ta kia cà.

Liền bẻ lái day mũi ngay vào cù lao mà thẳng tới, chạy chẳng đầy vài giờ nữa thì đã tới mé cù lao Thổ Châu, xảy thấy một bầy chim én chẳng biết mấy muôn con, ở trên mấy hòn núi Thổ Châu bay ra mịt trời, và vần vần theo trên chiếc thuyền của Đức Nguyễn Ánh, kêu la xăn đích, dường như thấy ngài tới, thì bay ra mà chào mừng tiếp rước.

Đức Nguyễn Ánh liền bảo các thuyền bỏ neo đậu dựa mé cù lao, thì thấy trên cù lao cây cỏ mịt mù, và có nhiều động đá ló ra rất lớn; chính giữa cù lao lại thấy mấy đảnh núi rất cao, đá liển chập chồng, chỗ do ra, chỗ hủng vô, xem rất kỳ quang dị mục.

Đức Nguyễn Ánh bèn sai hai tướng là Nguyễn Hữu Thoại với Nguyễn Huỳnh Đức, đem quân lên cù lao, tìm coi có nhà cửa dân cư chi chăng? Đặng lên mà đình trú.

Nguyễn Hữu Thoại và Nguyễn Huỳnh Đức mỗi người đem theo bốn tên bộ hạ, đều có cụ bị binh khí sẵn sàng rồi đi theo bãi biển lần lên, khi lên tới trên, Nguyễn Huỳnh Đức đi vòng qua phía Nam, còn Nguyễn Hữu Thoại đi vòng qua phía Bắc.

Khi Nguyễn Hữu Thoại đi tới chơn núi, liền leo lên mấy gộp đá cao, rồi lần lên đảnh núi, đứng xem bốn phía, xảy thấy một thạch động rất to, hai bên thạch động, có mọc một đám huỳnh mai, trổ bông vàng rựng.

Nguyễn Hữu Thoại với bốn tên quân nhơn bước vô phía trong thạch động, thấy ổ én đóng theo kẹt đá, chẳng biết bao nhiêu, còn chim én thấy bóng người ta, thì trong ổ cả bầy bay ra như dơi đáp muỗi, mấy người nầy quanh qua lộn lại hồi lâu, khi ra khỏi thạch động, xem lại đã lọt qua phía núi bên kia, thì thấy mặt trời đã lần lần chen lặng chỉ còn một bóng tàng dương ửng đỏ, rưng rưng theo mé chơn trời, với ít cụm mây hồng, đương phưởng phất trên không rồi dọi ngay xuống nước, xem như một vóc gấm điều, ai đem trải trên mặt biển kia vậy.

Nguyễn Hữu Thoại và mấy tên bộ hạ đương đứng xem coi, bỗng thấy hai chiếc ghe ngoài biển, phăng phăng chạy vô, có sáu bảy người đương đứng trên mui, mắt ngó chăm chăm vô cù lao, và thổi lên một tiếng còi, thì ghe đã cuốn buồm, và lần lần chạy vô tới bến.

Nguyễn Hữu Thoại đứng trên gộp đá ngó ra ghe ấy chăm chỉ một hồi, rồi day lại nói với mấy tên quân nhơn rằng:

 – Chắc thuyền ấy là thuyền của bọn cướp nào đây, đến tàng tụ nơi cù lao nầy, là chỗ sào huyệt của chúng nó, vậy chúng ta hãy xuống núi đặng dọ xem cho biết chúng nó ở đâu, và coi sự hành động của chúng nó thế nào luôn thể, nói rồi liền lần lần kéo nhau xuống núi, xảy thấy hai người ở dưới thuyền ấy đi lên, một người đội nón trắng, vành lớn như mâm, bên lưng có dắt một ngọn đoản đao, còn một người đội nón lông chim sắc đen, tay cầm một cái búa, cả hai đều đi vào trong đường núi.

Nguyễn Hữu Thoại với mấy tên quân nhơn bèn lén lén theo sau, kế nghe người đội nón trắng nói rằng:

 – Tối nay chúng ta làm một tiệc rượu cho xình xàng, rồi ngủ mới sướng.

Lại nghe người đội nón lông chim đáp rằng:

 – Chú cứ ưa theo thần men hoài, còn tôi lại thích theo thần phiện, sau khi ăn rồi, kéo chơi ít điếu, lấy làm khoái sảng tinh thần, và sướng cả mình mẩy gân cốt, thế chẳng phải là thú vị lắm ư? Còn thần men của chú hễ vô khỏi yếu hầu rồi, thì khiến cho người phải say sưa vất vả, rồi ngã bụi tương bờ, đường chính không đi, cứ mé nầy xẹt qua mé kia, mé kia đâm vào mé nọ, nghỉnh mặt nghiêng đầu, như ghe bầu chạy vát. Chớ có thú vị gì đâu, mà chú gọi rằng sướng?

Nói rồi lấy một điếu thuốc võ thẩu ra đốt lên, bập bập nơi miệng, rồi trong lỗ mũi xịch ra hai lằng khói bay lên mịt mùi như một đám mây.

Tên kia nghe nói thì cãi lại rằng:

 – Anh dám khi thần men tôi à, anh coi trong mấy đám cưới vợ gả con, nếu không có thần men, thì lấy chi mà làm lễ hiệp cẩn giao bôi, và trong mấy tiệc hội hữu tân quan, nếu không thần men, thì lấy chi mà chén tạc chén thù, chuyện trò vui vẻ, còn thần phiện của anh, chỉ làm cho người ta máu hết thịt tiêu, hình gầy vóc ốm; quanh năm chí tối, cứ xẩn bẩn trên một bộ ván đó, mà xem như một chỗ cẩm tú giang san, và cứ xăm soi một ngọn đèn leo lét kia, mà ngỡ là một cảnh cực lạc thế giới, vậy mà gọi rằng thú vị, thú vị cái gì?

Người đội nón lông chim cười ha hả mà nói rằng:

 – Chú không biết thần phiện của tôi là một vị phẩm giá cao sang lắm sao? Để tôi nói cho chú nghe, thần phiện nầy tổ quán ở tại Vân Nam, dòng dõi sanh tại Phù Dung thành ở bên Tây Tạng; cả thảy trong Hoàn Cầu, ai mà chẳng biết danh, vì vậy các nhà công yên, người ta có dán một cặp liễn mà tặng thần phiện rằng: Lưỡng chẩm đối đàm thiên hạ sự. Nhứt cang xi táng cổ kim sầu. Chú không thấy à? Còn thần men của chú đó, có hay gì mà khoe khoang. Chú không nhớ trong đời Tam quốc kia à? Trương Phi bị thần men làm cho mê mang bất tỉnh, mà phải thất thủ đất Từ Châu, Lũ Bố cũng vì thần men làm cho say sưa, mà phải bị Tào A Mang hượt tróc; vậy thì thần men, thật là một giống đại hại cho nhơn quân, mà cũng là một giống đại ác cho xã hội.

Tên kia nghe nói liền xịt một cái, hơi bay nực nồng những rượu, rồi nói rằng:

 – Anh đừng khi thần men, tự cổ cấp kim, ai ai cũng đều ưa mến thần men hết cả, bởi vậy các văn nhơn nho sĩ người ta có nói câu rằng: “Vãng tống nhứt sanh duy hữu tửu”, nghĩa là trong một đời con người chỉ có rượu là vui. Lại có câu rằng: “Dụng tửu binh giải phá sầu thành” nghĩa là dung binh rượu mà giải phá cái thành buồn rầu. Anh không biết hai câu đó sao? Ấy vậy thần men chẳng những là cần dùng trong việc quan, hôn, tang, tế, mà thôi, lại còn giải sự buồn rầu cho người ta được nữa. Khi nào buồn, thì nhai một hai chiếc nem, uống một vài cốc rượu, rồi ngồi vích đốc trên ghế, chắp chắp một hồi, thì tự nhiên thần men, rần rần chạy cùng mặt mày gan ruột, chạy khắp gân cốt tay chơn, làm cho tẵng mẵn tê mê, thì sướng biết bao nhiêu là sướng, bởi vậy người ta mới nói câu rằng: “Tẵng mẵn tê mê vì cô bán rượu, liệt chiếu liệt giường vì chị bán nem”.

Nói rồi hai người cười rân cùng nhau trong đường núi.

(Xin coi tiếp quyển thứ nhì)

error: Content is protected !!