CƠN LƯU LẠC GÁI KIA THỌ KHỔ,
LÚC NGẶT NGHÈO CHA LẠI LY TRẦN.
Lai láng biển sầu, chứa chan giọt thảm,
Phận bạch phát giang hồ lưu lạc,
Biết bao lần khổ khổ tân tân,
Mảnh hồng nhan khách địa bơ vơ,
Thương vì nỗi thời thời vận vận.
Đấy nhắc lại khi cô Ngọc Sương nhờ Châu Văn Liếp giết chết tướng giặc là Bùi Khắc Phú mà cứu cô và cha cô khỏi nạn, rồi gá nghĩa nhơn duyên cùng nhau, kế hai đàng phân tay tự biệt. Châu Văn Liếp thì bôn ba theo chúa là Đức Nguyễn Ánh, còn Ngọc Sương với cha cô là ông Cử Khôi, thì bỏ hết cửa nhà sự sản, lật đật tìm phương lánh nạn, qua ở Long Hồ (Vĩnh Long) rồi mua một cái nhà lá ba căn, cha con cùng nhau tạm đỡ, ông thì tuổi càng ngày càng già, sức càng ngày càng yếu; lúc nầy là lúc các thứ bịnh hoạn mon men áp tới núp ở bên lưng, làm cho ông nay đau chứng nầy, mai đau chứng khác, lần lần huyết nhục tiêu ma, thảng mảng lây lất theo tháng ngày, mà coi lại mình đã gầy, vóc đã ốm; hai mé tóc phất phơ trên đầu ông, lần lựa đua nhau đã phê phê bạc trắng, đó là cái biểu hiện của tạo hóa để thôi thúc con người cho biết đến chừng ấy là cái chừng đã gần đất xa trời, khác nào cảnh chiều bóng xế.
Thật chẳng chi buồn bực hơn là cái cảnh phong chúc tàng niên, tang du mộ ảnh, cái cảnh ấy như đèn tàn dưới gió, bọt nổi ngoài sông, đã vậy lại bị con ma nghèo cứ theo lân la dòm hành trước cửa, thằng quỉ bịnh rủ nhau áp tới xẫn bẫn bên mình, nó nhơn cái hồi vận bỉ thời quai mà làm cho con người phải ra tỉnh tỉnh mê mê, điên điên đảo đảo.
Cô Ngọc Sương thấy nhà đã nghèo, cha lại yếu, thì ngày như đêm, năm như tháng, cô vẫn lo lắng chống cự với cái hồi vận quỉ thời ma.
Cô vẫn là người có tánh chất thông minh, mà lại có tinh thần học thức, nhưng gặp cái đời chiến tranh bát loạn, chỗ nào cũng xăng văng chiêu binh khởi nghĩa, trúc lũy lập đồn, tập luyện theo nghề mũi đạn đường tên, chớ nào có ai cần gì đến việc trường văn trận bút.
Vì vậy cực chẳng đã, cô phải dẹp cái tài văn chương chữ nghĩa, mà dùng theo nghề nhỏ mọn nữ công, lấy việc thêu tiểu vá may, đường kim mối chỉ, gọi rằng đấp đổi tháng ngày trong cơn nghèo ngặt.
Bữa nọ cô lo cơm nước cho ông thân cô xong rồi, cô ngồi dựa song cửa với một ngọn đèn dầu, mà thêu một cặp hoang ương, đặng sáng đem bán cho các nhà giàu có trong làng mà tiêu xài độ nhựt.
Cô thêu một hồi rồi ngừng kim ngó mong ra cửa, thầm suy lặng nghĩ, nhớ tới quê xưa cảnh cũ, trong lúc ở tại Long Xuyên, bây giờ sự sản tan tành, cửa nhà xiêu lạc, cô nghĩ tới đó thì tơ tình cuộn cuộn, nét mặt dàu dàu, nghĩ quơ nghĩ quẩn một hồi lại thở dài than vắn, rồi day qua khêu đèn lên thêu, vừa thêu vừa ngâm một bài tự thán như vầy:
Hôm sớm thêm buồn việc nữ công,
Cha già nhà khó cậy ai cùng,
Bơ vơ thẹn nỗi thân bồ liễu,
Dung ruổi thương người phận kiếm cung.
Nhợ thảm vấn vương hồn xứ sở,
Gánh sầu hoằn hoại thệ non sông,
Bởi đâu khuấy đục trời Nam Việt,
Nên khiến phanh phuôi sợ chỉ hồng.
Trong lúc canh khuya đêm vắng, nghe cô ngâm giọng cao giọng thấp, tiếng nhỏ tiếng to, hòa với tiếng dế rủ rỉ bên thềm, nghe rất thâm trầm êm ái.
Cái nghề thêu thùa may vá của cô Ngọc Sương cũng là một nghề tuyệt xảo, nhờ vậy mà được đắp đổi tháng ngày, và cô là người tề gia nội trợ rất giỏi, mỗi việc chi cô đều ăn cần ở kiệm, xem sóc kỷ cang, việc đáng xài thì xài, còn việc chẳng đáng xài, dầu một đồng tiền kẽm cô cũng không hề chịu tốn, cô nghĩ cho đồng tiền bạc phải biết cách sử dụng nó, thì nó mới giúp đỡ mình, nếu chẳng biết cách dùng nó, thì nó vào cửa trước rồi tuốt ra ngõ sau mà đi ngay, nó tới tay mình rồi tức thì qua tay người khác, nên cô rất dè dặt cẩn thận trong việc bạc tiền, nhưng mà gặp cái hồi họa dập tai dồn, cũng chẳng biết sao mà chống cự lại nổi.
Từ khi qua ở Long Hồ (Vĩnh Long) chẳng được bao lâu, kế ông thân cô thọ bịnh, cô Ngọc Sương một mình ngày đêm lo lắng, sớm tối thuốc thang, song bịnh ông càng ngày càng nặng, bao nhiêu tiền bạc cắp củm đem theo, từ ấy đến nay, ngày lụn tháng qua, lớp ăn uống, lớp thuốc thang, lần lần tiêu xài sạch hết.
Còn cô Ngọc Sương thì phận gái thân cô sức yếu, biết làm sao mà chống cự với cái hồi vận bỉ thời quai. Bữa nọ ông thân cô bịnh trở, nằm liệt nơi giường, mà tiền bạc không còn đặng đi kiếm thầy chạy thuốc, cô bèn nói với ông rằng:
– Thưa cha, chá ráng ở nhà, để con ra chợ, coi có ai mướn may vá chút đỉnh gì, đặng lấy tiền hốt thuốc cho cha, bây giờ một đồng một chữ, không có trong nhà, chẳng lẽ ngồi đó khoanh tay mà chịu.
Ông thấy cô nói vậy, thì rưng rưng nước mắt mà nói rằng:
– Con ôi! Con có đi thì con nhớ về cho sớm, kẻo cha trông đợi.
Cô dạ, bèn lấy khăn choàng hầu, rồi lật đật ra đi, cô tới mấy người bán hàng ngoài chợ, hỏi hàng nầy qua hàng kia, mà không ai mướn may chi hết, tội nghiệp cho cô đi hơn một buổi, tưởng lãnh đặng mối nào mà may, đặng lấy tiền chạy thuốc cho cha, chẳng dè tới đâu, người nói bán ế, kẻ nói không may, chẳng ai muốn hết.
Cô Ngọc Sương thấy việc không thành, thì sắc mặt buồn dàu, kế mặt trời chen lặn, thì sợ cha ở nhà một mình không ai cơm nước, liền lật đật trở về, tới nhà bèn bước vô giường, thấy ông đương nằm nhắm mắt, ông nghe cô về thì mở mắt hỏi rằng:
– Con, con kiếm chỗ may vá gì được không?
Cô Ngọc Sương nghe ông hỏi, thì bước lại bên giường mà hai tròng rưng rưng ứa lụy và nói rằng:
– Cha ôi! Con kiếm hết sức mà chưa có chỗ nào mướn may, để sáng mai con sẽ đi kiếm chỗ khác thử coi, có lẽ cũng được, xin cha chớ lo, để mặc con toan liệu; trong mình cha bây giờ có khỏe không cha? Để con nấu miếng cháo cho cha ăn nghé.
– Nãy giờ trong bụng nóng nảy xót xa, vậy con coi còn gạo nấu cho cha miếng cháo.
Cô Ngọc Sương nghe cha nói vậy, lật đật ra xách nồi vô hủ lấy gạo đặng nấu cháo cho cha, và nấu một nồi cơm mà ăn luôn thể, kẻo hồi mai đến giờ trong bụng chưa có cơm nước chi hết, chẳng dè vô thấy hủ gạo sạch trơn, không còn một hột, cô sững sờ rồi ngồi rưng rưng nước mắt, vì cô mắt lớp lo chạy bạc tiền, lớp lo kiếm may vá, phần thi lo chạy thuốc thang cho ông thân cô, nên trong lòng cô lúc bấy giờ lăng xăng trăm mối tơ vò; lớp lo thang thuốc lớp lo bạc tiền. Vì vậy mà cô không dè sự ở nhà gạo hết mà đề phòng, thật nghĩ mà thảm thay cho cái hồi ngặt nghèo, tiền không, gạo hết, đến đỗi một bữa cháo cũng chẳng no, một nồi cơm cũng không có.
Cô đương ngồi suy nghĩ đến phận nghèo khổ thì vẻ mặt buồn xo, bỗng thấy con chó mực lưỡn thưỡn dưới nhà bếp đi lên, bụng đói xếp ve, lại đứng bên cô, hai mắt ngó lom lom vào nồi, và ngước lên nhìn cô một hồi, rồi nguých đuôi thểnh thoảng lại góc nằm khoanh, mắt nhắm lim dim, và thở ra một cái nghe rất buồn bực, dường như nó thấy trong nồi không gạo, dưới bếp lạnh tanh, và thấy chủ thảm sầu, thì thơ thẩn bỏ đi rồi nằm khoanh xó góc mà chịu, thật là:
Chó chực bữa ăn rơi nước mắt,
Mèo rình hủ gạo tụng lông nheo.
Cô Ngọc Sương thấy trong hủ hết gạo, thì để nồi trên bếp suy nghĩ một hồi, rồi chạy lại nhà chị hai Bé ở lối xóm và nói:
– Chị hai, chị còn gạo làm ơn cho tôi mượn đỡ một nồi, đặng nấu miếng cháo cho ông già tôi ăn, mai giờ tôi mắc ra chợ mới về, chẳng dè gạo hết, chị làm ơn cho tôi mượn đỡ, rồi mai tôi mua trả lại cho chị, chẳng dám sai đâu.
Chị hai Bé thấy cô nói vậy, lật đật bước vào nhà trong một hồi, rồi trở ra nói:
– Cơ khổ tôi tưởng còn gạo trắng, thì cho cô mượn đỡ một nồi, chẳng dè trong hũ cũng sạch trơn, bây giờ chỉ còn có một mủng gạo lức đó thôi, cô dùng đặng lấy về mà dùng đỡ.
Cô Ngọc Sương nghe nói thì sững sờ rồi nghĩ thầm rằng: “Trong cơn thốn thiếu, một nồi gạo chạy cũng không ra, bây giờ tối rồi, biết chạy đâu cho đặng, cha thì già yếu, mà trong cơn đau ốm, thì nhờ có miếng cháo hột cơm, mà cháo cơm chẳng có, thang thuốc cũng không, thì chịu sao cho nổi, cô nghĩ như vậy thì nói với chị hai Bé rằng:
– Thôi! Chị làm ơn cho tôi mượn đỡ một nồi gạo lức cũng được, chớ bây giờ không có gạo giã, thì biết chạy đi đâu.
Chị hai Bé nghe nói lật đật vô xúc một chén gạo lức đem ra, cô Ngọc Sương bưng về vo gạo sạch sẽ rồi nấu, một lát cháo chín cô múc một chén đem lên cho ông thân cô, và nói rằng:
– Cha ôi! Để con đỡ cha dậy húp đỡ vài muỗng cháo cho khỏe.
Ông Cử Khôi lồm cồm cượng dậy, húp hết nửa chén, rồi cô rót nước cho ông uống và nói rằng:
– Thôi cha nằm xuống nghỉ một chút cho khỏe, rồi sáng con sẽ chạy tiền hốt thuốc cho cha.
Ông nghe nói thì lắc đầu rồi ứa nước mắt mà rằng:
– Con ôi! Cha biết trong mình cha đã lâm trọng bịnh, không thuốc nào cứu đặng, cha cũng van vái phật trời, như phải đến phần số thì cho cha nhắm mắt cho rồi, để đau trầm trệ lâu ngày, thì cực khổ cho con, con là phận gái thân cô sức yếu, làm gì mà chống cự nổi cái cảnh ngộ thảm khổ ngặt nghèo nầy, cha mạnh thì chẳng nói chi, nếu một mai cha có điều gì, thì tội nghiệp cho con lắm, chồng con thì mắc lo việc phò vua giúp nước, còn con thì bơ vơ xứ sở, côi cút một mình, rủi gặp cơn nắng lửa mưa dầu, thì biết ai mà náu nương nhờ cậy.
Nói rồi thì hai hàng nước mắt ròng ròng chảy xuống.
Cô Ngọc Sương bưng chén cháo để xuống đất rồi quì mọp bên giường khóc và nói rằng:
– Cha ôi! Con vái trời cho cha mạnh giỏi mà qua khỏi nạn nầy, dầu con dải nắng dầm sương, cực khổ thế nào thì con cũng lo chạy thuốc thang cho cha, gọi đền chút ơn sâu dưỡng dục, công nặng sanh thành, xin cha chớ ưu phiền, mà. sanh thêm bịnh hoạn, con tuy thân cô sức yếu, quần vận yếm mang, song từ nhỏ đến giờ, nhờ cha dạy dỗ học hành, cũng đã nếm được chút ít cái mùi thánh kinh hiền truyện, con cũng biết giữ cái tư cách của một gái, thế nào gọi rằng hiền đức nữ công. Cha ôi! Con tuy còn thơ bé, song con cũng có đủ trí khôn mà đối với việc trong gia đình, cùng người ngoài xã hội, xin cha ráng tịnh dưỡng tâm thần, đặng con lo chạy thuốc thang cho cha, họa may trời còn lòng thương, thì bịnh căn cũng lần lần thuyên giảm.
Cô nói rồi lấy khăn lau nước mắt, xuống bếp múc cháo ra ăn sơ sịa ít muỗng đỡ lòng, rồi day qua thấy con chó mực nằm khoanh dưới ván yêm lìm, mắt ngó chừng cô, mà không dám léo lại, cô thấy vậy bèn lấy miếng cháo dư, đem lại và kêu và nói rằng:
– Mực mực, còn chút cháo dư đây nầy mi dậy mà ăn đi,\
Con mực nghe cô kêu thì chờn vờn đứng dậy, ngoắc đuôi lia lịa, còn hai mắt ngó cô chăm chăm, và le lưỡi liếm mép hai ba cái, tội nghiệp cho con súc vật nầy là một giống trung tín khôn ngoan, thấy chủ buồn thì cũng buồn, rồi kiếm chỗ nằm khoanh thiêm thiếp, kế nghe chủ kêu cho ăn, thì chạy lại ngoắc đuôi lia lịa, ra bộ lăng xăng mừng quýnh.
Cô Ngọc Sương dọn dẹp đóng cửa trước sau xong rồi vào giường thăm cha, thấy cha đã ngủ, cô bèn lại ván nằm rồi suy tới nghĩ lui, chẳng biết Châu Văn Tiếp là người đã gá nghĩa nhơn duyên cùng cô, bây giờ ở đâu, mà biệt tin biệt dạng. Chẳng biết người có giữ lời ước hẹn khi xưa, cho bằng lòng kẻ sớm trưa đợi chờ, từ khi người theo đức Nguyễn Ánh mà phò vua giúp nước, xông pha giữa chốn mũi đạn đường tên, chẳng biết người có bình yên vô dạng, mạnh giỏi thế nào, mà vắng bặt âm hao, làm cho cô mong mỏi ngày trông đêm đợi, thật là:
Cánh hồng bỗng cất tuyệt vời,
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm.
Còn ông thân cô thì bịnh càng ngày càng thêm, sức càng ngày càng yếu, tuổi già thắt thẻo, như trái chín trên cây, chăng may gặp một luồng gió trận mưa thế cũng ghe ngày phải rụng, rồi cô nghĩ đến cuộc nhà gặp lúc thời suy, phải cơn nghèo ngặt, mà thảm thay trong túi vắng hoa, rủi có điều gì, thì biết cậy ai giùm giúp, rồi cô nghĩ lại phận cô, quê người chiết bóng, thân gái một mình, thì lã chã giọt sầu, chẳng biết ai xui nên nỗi.
Cô mảng một mình trằn trọc, tư tư tưởng tưởng, nghĩ nghĩ suy suy, mà đêm lụn canh tàn, nằm không yên giấc.
Kế trời vừa rựng sáng, cô lật đật trổi dậy xuống bếp, nấu cháo và nước, rồi bưng lên cho ông thân cô và nói rằng:
– Cha, cha dậy ăn miếng cháo, con mới nấu đây cha, đặng con tính ra chợ cho sớm, kiếm coi có ai mướn may, thì lấy tiền mua gạo và hốt thuốc cho cha uống.
Ông nghe cô nói thì thở ra một cái, rồi gượng dậy húp ít muỗng cháo, và nói rằng:
– Con ôi! Con tính đi kiếm chỗ may, song cha tưởng người ta có mướn, cũng chẳng kiếm được tiền ab5c bao nhiêu, và họ thấy mình năn nỉ chìu lòn, họ lại éo náy mướn rẻ, thì lấy gì mà chi độ cho đủ trong cơn thắt ngặt ốm đau, phần cha ở nhà một mình, vắng trước quạnh sau, không ai nước nôi săn sóc. Vậy cha có quen với một chú Hương Bích ở xóm trên đây, cũng là anh em thân thiết với cha thuở nay, con lên nói cha đau, hỏi đỡ ít nhiều mà thuốc thang chi độ trong cơn túng rối, rồi thủng thẳng con sẽ kiếm chỗ may vá mà trả lại cho người ta.
Cô Ngọc Sương nghe cha nói vậy thì vâng lời, liền sắm sửa mặc áo lấy khăn ra đi.
Khi cô lên tới nhà chú Hương Bích, thấy thiếm Hương đương ngồi trên ván, sửa soạn ô trầu, còn chú Hương thì đứng trước hàng ba, xem cây nhắm kiểng.
Chú Hương thấy cô Ngọc Sương ngoài ngõ xăm xăm đi vô, thì hỏi rằng:
– Ủa hai, em đi đâu trên nầy, có việc chi không?
Cô Ngọc Sương bước lại chào hai vợ chồng chú Hương và nói rằng:
– Thưa chú thiếm, cha tôi hổm rày có bịnh, bảo tôi lên thưa cùng chú thiếm, làm ơn cho cha tôi mượn đỡ ít quan tiền đặng uống thuốc men, rồi tôi kiếm chổ may, sẽ lấy tiền trẻ lại cho chú thiếm, nếu chú thiếm rộng lòng làm ơn giúp giùm cho cha tôi trong cơn thắc ngặt, thì cha tôi và tôi đội ơn chú thiếm ngàn ngày.
Thiếm Hương nghe cô Ngọc Sương nói vậy, thì ngó chú Hương một cái và nói rằng:
– Con hai nó nói vậy, mà ba nó tính sao?
Chú Hương ngồi nghĩ thầm rằng: “Ông Cử Khôi là anh em quen biết, nếu giúp ông thì không lẽ ăn lời, và không biết ông trả đặng không? Nếu để lâu ngày thì mình thất lợi, chi bằng mình không cho thì hay hơn,” Nghĩ vậy rồi day lại nói với cô Ngọc Sương rằng:
– Cha chả rủi quá, không mấy thuở ông Cử sai em lên hỏi, mà ngặt vì lúc nầy, tiền qua mới cho người ta vay, hễ một trăm thì mỗi tháng trả lời ba phân, còn như hỏi ít, thì tiền lời mắc hơn bội nhị, mà hễ hỏi tiền thì phải cầm thế vật chi mới được, nếu quá kỳ mà không trả, thì qua bán đồ ấy mà lấy tiền, qua nghĩ cho để tiền ở nhà đã không lời, mà lại mất công cất giữ, vì vậy nên qua cho người ta vay hết, bây giờ trong nhà còn để đủ xài mà thôi, nếu cho em mượn, thì lấy gì mà chi dụng, thôi em chịu phiền về thưa lại cho ông Cử rõ, và kiếm chỗ khác mà hỏi đỡ, chớ chi sẵn tiền thì qua cũng giúp cho ông Cử uống thuốc kẻo tội nghiệp; còn như em chờ được thì chờ tới tháng sau đây họ trả tiền, chừng đó qua sẽ giúp em mới được.
Cô Ngọc Sương là một gái thông minh mẫn thiệp, thấy chú Hương Bích nói vậy, thì biết là một tay chỉ lo chặt đầu lột da người ta mà làm giàu, chớ chẳng biết trọng nghĩa thi ân, mà giúp đỡ ai trong cơn nghèo ngặt, cô liền ngồi ghé nơi ván và hưỡn đãi nói rằng:
– Thưa chú, đêm hôm qua, khi tôi săn sóc cho cha tôi rồi, thì canh đã khuya, tôi vừa lại ván nằm nghĩ mơ màng, bỗng thấy một điềm chiêm bao rất lạ, tôi thấy tôi đi vào một cái cù lao, kiếm thuốc cho cha tôi, xảy gặp một con cá voi nhỏ, nằm trên trảng cát và nói chuyện với một tên phường chài, tôi lấy làm lạ và nghĩ thầm rằng “Cá gì mà biết nói tiếng người ta,” tức thì tôi lần lại lóng tai để nghe, thì nghe cá voi ấy nói rằng: “Ta là thái tử của Nam Hải Long vương, đi dạo chơi phong cảnh, rủi mắc cạn nơi đống cát nầy, đã hai ngày nay, ngươi có nước làm ơn cho ta một gáo đỡ khát”. Tên phường chài kia, ngẫm nghĩ một hồi rồi trả lời rằng “Tôi bây giờ chỉ có một bầu nước đem theo đủ uống mà thôi, nếu cho ngài thì tôi lấy chi mà dùng trong cơn khao khát, vậy ngài chịu phiền nằm đây, chờ tôi ra biển Nam Hải, lấy nước đem về mà cứu ngài đặng không?” Cá voi nhỏ kia, nghe nói thì phùng hai mang lên, quay đầu ngó lại, rồi trong lỗ mũi xịt hơi ra một cái và nói rằng: “Ta cùng mi chẳng phải xa lạ, khi thuyền mi gặp lúc cuồng phong nộ lãng, sóng gió hiểm nguy, thì có ta ở một bên ghe mi mà chở che phò hộ, bây giờ ta gặp lúc gian nan như vầy, mà mi đành mặt ngơ tai điếc. Mi là người đại ác, một gáo nước mà mi không chịu giúp ta trong cơn khao khát; bây giờ nếu chờ mi ra biển Nam Hải đem nước về đây, thì chừng ấy ta đã chết khô trên trảng cát nầy, còn gì mà cứu đặng”, nói rồi cá voi ấy đập đuôi một cái, cát bay mù mịt, tôi bèn giựt mình thức dậy thì là một giấc chiêm bao.
Cô Ngọc Sương lại nói tiếp thêm rằng:
– Điềm chiêm bao ấy chẳng biết hung kiết lẽ nào, song tôi nghĩ lại bịnh cha tôi đương lúc ngặt nghèo nầy, nếu chờ qua tháng sau như lời chú nói với tôi khi nãy, thì chừng ấy chắc là cha tôi sẽ chết khô như cá voi kia vậy.
Cô nói rồi lấy khăn lau nước mắt và cáo từ ra về.
Hai vợ chồng chú Hương Bích nghe những lời cô Ngọc Sương nói đó, thì trong lòng dường như có vật chi cắn rứt lương tâm, thấm thía mà hổ thẹn, rồi thiếm Hương day lại nói với chồng rằng:
– Con Ngọc Sương nó nói vậy, mình nghe hiểu không?
Chú Hương Bích ngồi nhịp nhịp chơn và nói:
– Nó nói nó thấy điều chiêm bao như vậy, thì sợ cha nó chết chớ gì, cái tánh đàn bà con gái, hễ thấy điềm gì lạ, thì nghi nan sợ hãi, chớ có gì lạ đâu.
Thiếm Hương ngó chú Hương nửa con mắt rồi cười một cái lạt lẽo mà nói rằng:
– Thật cái lỗ tai mình dày quá, con Ngọc Sương nó thấy mình không cho nó mượn tiền, nó bày đặt chiêm bao chiêm bị, nói vậy mà biếm nhẽ kiêu ngạo mình, mà mình không hiểu hay sao?
Chú Hương Bích đương ngồi vén quần gãi bắp vế xạc xạc, nghe vợ nói vậy thì vỗ trên bắp vế cái bép, rồi trợn mắt nheo mày mà nói rằng:
– Trời ôi! Con Ngọc Sương nó đặt chuyện mà biếm nhẽ mình sao? Sao hồi nãy má nó không nói cho tôi hỏi nó, để bây giờ nó đi về rồi, thì nói gì cho đặng, con nhỏ nầy quá quắc dữ chưa, để tôi xuống mắng vốn với ông già nó, và nói cho nó biết.
Thiếm Hương nói:
– Thôi đi, cái mặt mình dốt nát đó, xuống nói chót chét đây, nó kiếm chuyện mắng nữa mà thêm xấu.
Khi cô Ngọc Sương trở về dọc đàng, vừa đi vừa nghĩ, nghĩ mà ngán ngẫm cho tình người lạt lẽo, cuộc thế đảo điên, hễ khi rượu trà lành mạnh, thì anh em thân thiết chơi bời, còn lúc hoạn nạn ngặt nghèo thỉ giả làm mặt ngơ tai điếc, hèn chi sách có câu rằng:
Ân nghĩa tận tùng bần xứ đoạn,
Thế tình thiên khán hữu tiền gia.
(Dịch nghĩa:
Cái ơn nghĩa đều bị chỗ nghèo mà dứt.
Cái tình đời cứ coi nhà nào có tiền thì hơn).
Chớ chi cha tôi giàu có, thì chúng nó thưa thưa dạ dạ, đỡ đỡ nưng nưng, tới lui theo khi chén rượu chung trà, anh em theo lúc đồng tiền túi bạc, còn lâm cơn bịnh hoạn gặp lúc nghèo nàn, dầu cho tới nó mà năn nỉ ỷ ôi, thì cũng chẳng ngó ngàng giúp đỡ; cô nghĩ vậy thì mặt hoa ủ dột, mày nguyệt nhăn nho, thật ghê gớm thay cho cái lũ tham phú phụ bần, chỉ biết say mê theo mùi kẽm hơi đồng, mà chẳng kể đến thân bằng cố hữu, ngán thay cho đám nhơn tình thế thới, điên điên đảo đảo, tỉnh tỉnh mê mê, chẳng biết kẻ phải người không, chỉ bo bo theo thói tham lam khổ khắc, nay mình gặp cơn nghèo ngặt, nào ai là người tế nhơn lợi vật, nào ai là kẻ truất khổ lân bần, ngó vào bàng gia lân lý, trông ra xã hội nhơn quần, xét lại thì mấy ai ở đăng hảo tâm; nắng toan giúp nón, mưa dùm áo tơi.
Cô Ngọc Sương đương đi thơ thơ thẩn thẩn, nghĩ nghĩ suy suy, bỗng có một bàn tay thình lình vỗ ngay trên vai cô một cái, và cất tiếng hỏi rằng:
– Em hai, em đi đâu đây, mà xem bộ lơ là buồn bực như vậy?
Cô Ngọc Sương giựt mình ngó lại, thấy bà chủ Mai là người ở lối xóm với cô, thì vội vã thưa rằng:
– Thưa bà, tôi đi xuống dưới chú Hương Bích về.
– Qua nghe nói ông già em đau, nay đã mạnh chưa?
– Thưa bà, cha tôi hổm nay đau nặng, một ngày một yếu, phần thì thuốc thang không có, phần thì thốn thiếu bạc tiền, nên cha tôi bảo tôi xuống chú Hương Bích mượn đỡ ít nhiều, đặng lo mà chạy thầy hốt thuốc, nhưng mà …
Bà chủ nghe cô nói tới đó rồi nín đi, thì hỏi tiếp rằng:
– Nhưng mà rồi sao? Em có mượn được chăng, sao em nói tới đó rồi lại không nói cho dứt?
– Thưa bà, nhưng mà chú Hương Bích nói tiền mắc cho người ta vay hết, nên không cho mượn, vì vậy nên tôi phải về không, bây giờ tôi chưa biết tính sao mà mượn ai cho đặng. Cha tôi cũng tưởng chú là anh em quen biết thuở nay, lẽ nào trong cơn đau đớn như vầy, mà chú không giúp đỡ chút đĩnh, nên nới sai tôi xuống hỏi, nhưng mà sự tưởng của cha tôi đó, là để cho người biết thi ân trọng nghĩa, truất khổ lân bần kìa, chớ như chú Hương Bích nầy, thì dẫu cho cốt nhục đồng bào, chú cũng không nới cái túi tham của chú ra đặng.
Bà chủ Mai nghe cô nỉ non nói vậy, thì cảm động lòng thương rồi nói rằng:
– Ác nghiệp dữ không? Sao hổm nay em không nói, để chạy hỏi người ta làm chi, cho trễ nãi công việc, thôi em lại nhà, qua cho mượn đỡ chút đĩnh đặng lo chạy thuốc men cho ông già. Qua tuy không giàu có gì, song thấy việc phải nghĩa thì cũng biết làm ơn, vì em út cũng là người ở lân cận xóm riềng, rủi gặp lúc ngặt cơn nghèo, nếu qua không hay thì thôi, còn hay biết lẽ nào làm mặt nhơ tai điếc sao đặng. Qua đây tuy đàn bà góa bụa mặc dầu, song cũng biết làm sự nghĩa, chẳng phải như bọn nhà giàu bất nhơn kia, coi đồng tiền bằng bánh xe, ỷ lấy cái thế lực kim tiền, rồi kiếm chước chặt đầu lột da người một giống một nòi mà thủ lợi vậy đâu. Thôi em đi theo qua, qua giúp cho không sao phòng ngại.
Cô Ngọc Sương lặng nghe mấy lời bà chủ Mai nói, thì trong lòng phới phở, nở mặt tươi mày, rồi đáp rằng:
– Thưa bà, nếu bà có lòng đại độ, ra ơn giúp đỡ em út trong lúc túng cùng, thì ơn bà tôi ghi chạm vào lòng, không bao giờ quên đặng.
Nói rồi cô theo bà về nhà, bà lật đật vào buồng lấy hai đỉnh bạc và ít quan tiền, đem ra đưa cho cô Ngọc Sương và nói:
– Đây Hai, em lấy bạc tiền nầy về, lo chạy thuốc cho ông già em, chừng nào hét, thì em lại lấy thêm chút đỉnh nữa mà dùng, em đừng ái ngại chi hết.
Cô Ngọc Sương thấy bà thật là một người hảo tâm hào hiệp, thì cúi đầu cảm ơn, rồi lật đật trở về, bước vào buồng thăm cha.
Ông thấy cô về thì hỏi rằng:
– Sao con xuống chú Hương Bích mượn đặng nhiều ít gì không?
– Thưa cha, con xuống hỏi, chú nói tiền mắc cho người ta vay hết, nên không cho mượn.
Nguyên chú Hương Bích là người tri thức của ông, nên ông có lòng trông cậy dầu nhiều không có, thì chút đĩnh có lẽ chú cũng giúp cho, chẳng dè cô Ngọc Sương nói vậy, thì trong lòng ông đã thất kỳ sở vọng, rồi ngước mặt thở dài một cái, xem rất thảm sầu, và không nói chi hết.
Cô Ngọc Sương thấy ông thất vọng mà buồn rầu thì nói với ông rằng:
– Nhưng cũng một dịp may cho nhà mình lắm cha, khi con hỏi chú Hương Bích không đặng, trở về dọc đàng, con gặp bà chủ Mai, thấy con buồn bực thơ thẩn bên đàng, thì chạy lại hỏi con, con thuật công việc cho bà nghe. Bà thấy vậy bảo con lại nhà, rồi cho mượn hai đỉnh bạc với ít quan tiền, bà lại dặn con rằng chừng nào thiếu dùng, thì lại bà giúp nữa cho, không sao phòng ngại, thật bà là một người rất hảo tâm hào hiệp, trọng nghĩa lân bần, chẳng phải như chú Hương Bích, chỉ biết tiếc trọng đồng tiền, mà chẳng biết tới anh em nhơn nghĩa chi hết.
Cô nói rồi lấy hai đỉnh bạc trong túi đưa cho ông xem.
Ông tỏ ra có vẻ vui mừng cám cảnh rồi nói rằng:
– Con ôi! Bạc tiền là một giống quí báu của người, song dùng nó phải cách, thì nó làm cho người ta khen ngợi kính vì, còn dùng nó không nhằm cách, thì nó giết chết linh hồn, phá hại lương tâm, làm cho người ta chê cười khinh bỉ là vậy đó đa con, nên phương ngôn có nói câu rằng: tiền bạc giết chết linh hồn người, nhiều là gươm đao giết chết xác thịt.
Cô nghe ông nói rồi, thì vội vã trở ra, lo rước thầy chạy thuốc cho ông, và mua gạo thóc vật thực, để dành mà dùng trong cơn bí yếu.
Song bịnh ông càng ngày càng nặng, đến đỗi cơm cháo không ăn, cô lo chạy thuốc thang, thầy nầy qua thầy kia, mà không thấy dấu gì là công hiệu.
Bữa nọ, bịnh ông trầm trọng, bức rức không yên, ông bèn kêu cô mà nói rằng:
– Con ôi! Cha thế nào cũng không sống đặng, thôi con dừng thuốc thang chi nữa, mà uổng phí bạc tiền, vì cha biết trong mình cha thế nào rồi, cha đến tuổi nầy dầu nhắm mắt cũng yên bề phận mạng, cái đường đời của cha tới đây đã cùng, con chớ thấy vậy mà ưu sầu khóc lóc. Con ôi! Cái cảnh trần thế nầy là một cái quán để cho người tạm ở ít lâu mà thôi, còn miền địa phủ kia mới thật là chỗ quê hương xứ sở, cha bây giờ tuổi đã cao, tác đã yếu, tinh thần liệt nhược, cốt nhục tiêu ma, đó là cái hạn kỳ thôi thúc cha phải từ biệt dương trần, mà trở về quê kiểng. Đã biết rằng cái xuất tuồng ly sầu biệt hận nầy, ai xem đến cũng phải xót dạ đau lòng, huống hồ cha con mình là phụ tử tình thâm, thì bao xiết là gan xàu ruột héo. Nhưng mà cha khuyên con một điều là phải lấy tinh thần mạnh mẽ mà đối với cái cảnh thế cuộc tang thương, chẳng nên học theo thói nhi nữ thường tình mà làm hư danh giá con nhà thế phiệt. Con ôi! Châu Văn Tiếp là người đã gá. nghĩa tóc tơ cùng con, vẫn là một người hào hiệp trượng phu, anh hùng khí phách, mai sau may mà vợ chồng sum hiệp, gặp gỡ lương duyên, thì con phải làm sao cho đáng mặt thuyền quyên, xứng trang thục nữ, mà đối đãi cùng người, được vậy dầu cha thác xuống tuyền đài, cũng đặng chút vui lòng sở nguyện.
Ông nói tới đây thì tiếng đã khan, hơi đã mỏn; rồi nhắm mắt nằm yêm, và mê mệt tâm thần, không nói chi đặng nữa.
Cô Ngọc Sương thấy ông thần sắc biến đổi, bức rức không yên thì ứa lụy đôi tròng, rồi lấy tay để trên ngực ông đặng coi trái tim còn nhảy mạnh yếu thế nào, thì nghe bộ mạch thần kinh của ông chỉ còn thoi thóp, nhảy pháy pháy như sợi tơ, và hơi thở phưởng phất yếu như mành chỉ.
Cô lật đật lấy mền đắp điếm cho ông, rồi ngó lại quanh mình, bà con chẳng có, thân thích cũng không, chỉ có một cha một con, mà gặp cái tình cảnh tử biệt sanh ly, thảm thiết như vầy, thì cô nghĩ càng đứt ruột đau lòng, biết bao là dầm dề giọt lệ. Giây lâu cô ngó lại thì ông đã tắc hơi, cô bèn gục đầu bên giường mà khóc thôi nức nỡ.
Khi ông mất rồi những chị em cô bác ở lối xóm hay, chạy lại viếng thăm rồi người lo việc nầy, kẻ dùm chuyện khác, kẻ giúp công, người giúp của, đặng lo sự tẩn liệm cùng cô, vì cô là người tánh tình hòa nhã, ăn nói phải điều, bình nhựt cô lấy một sự tình nghĩa mà đối đãi với cô bác chị em, giao thiệp với xóm giềng lân lý, đều là nhỏ nhoi tử tế, người trong xóm có điều chi hoạn nạn thì cô đến chia thảm phân phiền, chị em có việc gì bất hòa thì cô lại khuyên lơn bài giải, nên khi cô hữu sự, ao nấy đều vì nể thương yêu và hết sức hết lòng mà dùm giúp cô trong cơn mai táng.
Khi cất táng ông xong rồi, cô bán cái nhà đặng làm phần mộ cho ông, còn dư thì trả tiền thốn thiếu người ta, rồi tính qua Mỹ Tho, trước là thăm người dì, sau là hỏi han tin tức Châu Văn Tiếp luôn thể.
Vì nghe đức Nguyễn Ánh đánh đuổi quân Tây Sơn thâu phục Saigon lại rồi nhưng mà người tình nghĩa của cô là Châu Văn Tiếp chưa biết trấn thủ nơi nào, nên cô tính qua Mỹ tho cho tiện bề dọ thăm tin tức.
Bữa nọ cô đến từ giã và cảm ơn bà chủ Mai và chị em quen biết lối xóm, rồi mướn một chiếc ghe đưa cô qua nhà người dì ở Mỹ tho mà trú ngụ.