Gia Long tẩu quốc – Hồi thứ mười bốn

BÁ-ĐA-LỘC DỰ BÀN QUỐC SỰ,

ĐỨC NGUYỄN VƯƠNG DIỄN DƯỢT CHIẾN THUYỀN.

Lúc bấy giờ có một vị Giám mục của nước Pháp kêu là E-vết-đa-trăng (Evêque d’Adran) (1) lấy theo tên của vua cho, gọi là Bá-Đa-Lộc, người qua nước ta giảng đạo Thiên chúa, gặp lúc Hoàng triều biến loạn, chúa thượng lưu ly, người thấy đức Nguyễn Ánh là một vua thông minh, biết nạp sĩ chiêu hiền, thì theo giúp đỡ tay chơn, và cũng hết sức hết lòng cùng vua, trong cơn hoạn nạn.

Khi Giám mục Bá-Đa-Lộc đương ở giáo đường tại Thủ Thiêm, bỗng nghe Đỗ Thanh Nhơn bị Nguyễn vương xử tử, tức thì lật đật chống gậy vào triều yết kiến.

Nguyễn vương thấy người đến, thì mừng rỡ rước vào, và mời ngồi bên ngài mà hỏi rằng:

– Giám mục hổm rày cách mặt, quả nhơn có ý đợi trông, nay Giám mục đến viếng quả nhơn, và có việc chi ích quốc lợi dân, xin Giám mục chỉ giáo.

– Bẩm chúa thượng, hạ thần đương ở giáo đường thuyết pháp, bỗng nghe Đỗ Thanh Nhơn bị xử tử hình, song chẳng rõ tội chi, nên vội vã đến đây thăm hỏi duyên do, xin chúa thượng nói cho hạ thần rõ chút.

Nguyễn vương nghe hỏi thì mặt có vẻ buồn rồi đáp rằng:

– Đỗ Thanh Nhơn là một người phạm tội ỷ thế chuyên quyền, khi quân nghịch quốc, vậy mà Giám mục chưa rõ hay sao?

– Bẩm chúa thượng, hạ thần chưa rõ chi hết.

Nguyễn vương liền thuật đầu đuôi các việc của Đỗ Thanh Nhơn phạm tội đã nói trước kia cho Giám mục nghe, và hỏi rằng:

– Tội Đỗ Thanh Nhơn như vậy, Giám mục nghĩ có đáng chăng?

Giám mục Bá-Đa-Lộc nghe rồi nghĩ nghị một chút day lại nói với Nguyễn vương rằng:

 – Bẩm chúa thượng, lấy theo các điều của Đỗ Thanh Nhơn ỷ thế khi quân, chuyên quyền sanh sát, thì tội ấy đã ưng; nhưng mà nghĩ cho Đỗ Thanh Nhơn giúp chúa cũng có lập đặng nhiều trận công lao, nay chẳng may mà phạm tội tử hình, thì phận đó đã ưng, tội kia đã đáng, song e một điều là các tướng tâm phúc của Thanh Nhơn thấy vậy bất bình, mà sanh lòng đồ mưu dấy loạn. Vậy xin chúa thượng lấy chút nhơn tình, xét cho Đỗ Thanh Nhơn cũng là một tôi phụ quốc công thần ngày xưa, mà cho dùng theo tước phẩm Quận công, đặng làm lễ tống chung cho rỡ ràng trong cơn tử biệt. Vậy trước là tỏ rằng chúa thượng có lượng đại độ khoan hồng, còn đoái tưởng đến kẻ công thần cựu nghĩa, sau là tỏ cho các tướng của Đỗ Thanh Nhơn thấy vậy mà đẹp ý bằng lòng, cho khỏi ngày kia sanh sự bất bình thán oán.

Nguyễn vương nghe Giám mục Bá-Đa-Lộc bàn luận mấy lời, rất ý hiệp tâm đầu, thì đáp lại rằng:

 – Quả nhơn sẽ y như lời Giám mục chỉ khuyến.

Nói rồi liền truyền lịnh cho quan Lễ bộ thượng thơ phải sắp đặt nghi tiết trang hoàng, mà hậu táng Đỗ Thanh Nhơn theo lễ Quận công thượng tướng, và hạ chỉ khuyến dụ các tướng tâm phúc của Đỗ Thanh Nhơn.

Nhưng có hai tướng của Đỗ Thanh Nhơn là Đỗ Bản với Võ Nhàn, không chịu qui thuận triều đình, rồi kéo nhau trốn xuống Ba Giồng mà đồ mưu dấy loạn, đặng báo thù cho Đỗ Thanh Nhơn, sau bị Nguyễn vương bắt đặng đem về Saigon xử tử.

Khi làm lễ táng Đỗ Thanh Nhơn rồi, Nguyễn vương liền hạ lịnh phân binh của Đỗ Thành Nhơn ra làm bốn đạo, rồi sai Đô đốc Quảng thống lãnh về các đạo binh bộ. Huỳnh Thiêm Lộc làm Đại đề đốc về các đạo chiến thuyền binh thủy. Lê Văn Quân lãnh làm tiền quân, Trương Văn Bác lãnh làm hậu quân, Võ Giản Triêm lãnh làm hữu quân, các tướng đều nhứt nhứt thi hành mạng lịnh.

Trong năm Tân Sửu (1781) nhằm khoảng ba xuân cuối tiết, chín hạ giữa mùa; bữa nọ vừa lúc bóng ác rựng hồng, trời mai mát mẻ, ngó ra non sông bốn mặt, kiểng vật có sắc đẹp đẽ tươi cười, gió lặng sóng êm, thảy đều hiện ra một màu cây xanh nước bích.

Lúc bấy giờ tại ngã ba sông Nhà Bè, thấy hai đạo chiến thuyền của Nguyễn vương, đậu dọc hai bên mé sông, cả thảy hơn tám chục chiếc, mỗi chiếc đều có cột buồm vòi vọi cao lên, đối với ngọn bần hai bên mé sông, như một đám rừng cây, mọc lên lố xố, trên cột buồm đều có treo cờ đỏ vàng xanh trắng, xem rất oai nghi, một đạo bốn chục chiếc đậu theo phía tả; và một đạo bốn chục chiếc đậu theo phía hữu, lại có ba chiếc đại chiến thuyền đóng theo kiểu ta rất to, trên tàu có thuyền lầu, trước mũi sau lai, có trí mấy vị súng đại bác thần công rất lớn.

Từng dưới để quân thủy thủ trạo phu, từng trên để bài binh liệt trận, sau lái thuyền có dựng một cây đại kỳ sắc vàng, trên chót cột buồm giữa tàu, có treo một lá cờ chưn rít, phất lại đưa qua để làm hiệu lịnh.

Hai bên be thuyền, đều liệt bài khí giới, hàng ngũ nghiêm trang, xem rất oai nghi thứ tự.

Ba chiếc đại chiến thuyền nầy, một chiếc để cho Huỳnh Thiêm Lộc làm thủy sư Đại đề đốc; còn hai chiếc kia thì để cho Nguyễn Hữu Thoại và Dương Công Trừng làm phó Đề đốc.

Lại có hai chiếc đại chiến thuyền đóng theo kiểu phương tây, trên mỗi chiếc đều có vọng đài và súng ống khí giới bài trí tề chỉnh.

Một chiếc thì Tôn Thất Thiện làm phó Đề đốc, một chiếc thì quan Chưởng cơ là Mạng Hòe (Manuel) lãnh làm phó thủy sư Đề đốc, ông nầy là người nước Pháp ở bên Bông-đi-xê-ri (Pondichéry) nhờ ông Giám mục Bá-Đa-Lộc tiến dẫn cho Nguyễn vương, để giúp việc chiến thuyền và tập luyện binh thủy.

Khi hai đạo chiến thuyền bài liệt hai bên tề chỉnh rồi kế một lát, thấy trong sông Saigon, một chiếc tàu lớn, cột cao buồm rộng, bọc gió phăng phăng chạy ra, sau lái cặm một cây đại kỳ sắc vàng, trên lá cờ nầy có thêu một con tồng xanh rất to, bọc gió phất phơ, xem như con rồng ấy xung xăng bay múa, chiếc thuyền nầy quanh quan lộn lại, uốn éo theo mấy khúc sông, rẽ nước làm hai, từ từ lướt tới.

Khi lại gần thấy trước vọng đài có một tấm bảng sơn son thếp vàng, đề bốn chữ: “NGUYỄN VƯƠNG NGỰ THUYỀN” thì biết là chiếc ngự thuyền của vua Nguyễn.

Khi thuyền nầy ra tới Nhà Bè, bỗng thấy trên chiếc chiến thuyền của quan Đề đốc Huỳnh Thiêm Lộc, nháng lên một ánh hào quang và xẹt ra một lằng khói trắng, kế phát lên một tiếng súng thần công, rền cả trời nước, tức thì hai đạo chiến thuyền hai bên mé sông, cả thảy tám chục chiếc, đều kéo cờ hoan nghinh, và chào rước Nguyễn vương một cách nghiêm chỉnh.

Khi chiếc ngự thuyền của Nguyễn vương tới giữa sông Nhà Bè thì hạ buồm xuống neo, rồi đậu giữa trường giang xem rất xuê xang oai thể.

Lúc bấy giờ Nguyễn vương mình mặc một áo nhung y, đầu đội một nón chiến-lịp (là nón để đội trong khi đánh giặc) đứng trên vọng đài với các tướng, ngó ra hai đạo chiến thuyền, rồi hạ lịnh cho các quan thủy diễn bài trận thế.

Bỗng thấy trên chiếc chiến thuyền của đại Đề đốc Huỳnh Thiêm Lộc phất cờ lịnh lên, thì đạo tả dực, trương buồm chạy ra, rồi đạo hữu dực cũng kéo nhau xáp lại, khi dang ra, lúc xáp lại, khi chạy tới, lúc trở lui, cách vận động tấn thối lẹ làng, và binh thủy chiến đều tập rèn thuần thục.

Nguyễn vương xem hai đạo chiến thuyền diễn dượt một hồi, rồi hạ lịnh cho nghỉ, và truyền lịnh cho các quan thủy, hạn ba ngày thì phải diễn dượt chiến thuyền một lần.

Từ đấy các đạo binh bộ và binh thủy của Nguyễn vương ở tại Saigon đã đặng thắng số hơn ba chục ngàn, còn một đạo binh bộ của quan Khâm sai Đô đốc Châu Văn Tiếp cũng hơn ba ngàn, đương trấn tại Khánh Hòa và Bình Thuận.

(1) Evêque d’Adran tục ta có người kêu là cha cả, lăng người bây giờ còn tại làng Tân Sơn Nhứt (Gia Định) sau đức Gia Long phong tước là Quận công.

error: Content is protected !!