NẶC-VINH DẤY LOẠN GIẾT HOÀNG HUYNH,
NGUYỄN ÁNH SAI BINH CỨU CHƠN LẠP.
Cây nhuộm lá xanh, đào phơi nhụy đỏ, thấm thoát thiều quang trong chín chục, ngày lại qua con ém đưa thoi; mơ màng điệp trướng trót trăm canh, đêm xẩn bẩn tiếng gà giục thúc, rượu tiễn chúc tỉnh say say tỉnh, giọng ôn tồn to nhỏ nhỏ to, lời riêng riêng những dặn dò, nỉ non lúc chuyện khi trò hỏi han; Nàng ôi thức ngủ hỡi nàng, lầu tây nguyệt quế điện vàng tảng canh.
” – Nàng nghe chăng? Dậy, dậy, sáng rồi sao?
– Sáng rồi,
– Quốc vương sắm sửa chưa?
– Đã sẵn sàng hết cả,
– Nầy rượu Hồng cúc đây quốc vương uống thêm một ly, uống thêm một ly nữa nào.
– Nàng uống với ta cho vui,
– Thiếp sợ say lắm mà,
– Không say đâu, say rồi thì ngủ mà sợ nỗi gì,
– Quốc vương hãy uống đi,
– Ừ ta uống rồi, nàng uống nghé.
– Thôi đi, hai gò má thiếp đỏ lên đấy rồi, đừng ép thiếp nữa.
– Há há há, đẹp lắm, tốt lắm,
– Quốc vương đừng cười thiếp mà,
– Hố, hố hố, gò má nàng đỏ như trái đào, ta xem ngộ lắm,
– Quốc vương đừng nói, thiếp mắc cỡ lắm mà, nầy xin quốc vương uống thêm một ly nữa đi,
– Thôi, ta đi kẻo trưa,
– Quân ngự lâm ở đâu?
– Chúng nó chờ ta ngoài điện,
– Vậy thiếp xin chúc cho quốc vương nhứt lộ bình yên,
– Ừ, ta cũng chúc cho nàng ở nhà mạnh khỏe nghé.
– Thưa vâng.”
Những lời trên đây là lời của một vị quốc vương Cao Man nói với một nàng phi trong cung, trước khi đi săn bắn.
Vậy đây xin nói về sự vua nước Cao Man là Nặc-Tôn, có một nàng hầu rất yêu dấu, nàng nầy tên là Chất-băng-nhã, vẫn là người Xiêm Lai, thật một gái quốc sắc thiên hương, dung nhan kiều mị, nước da trắng đỏ, tóc dợn như mây, tròng mắt đen láng như huyền, mình mẩy xem rất dịu dàng yểu điệu, mặt mày đầy đặn, hai má ửng hồng, thật là một gái tuyệt sắc giai nhơn, trong hàng nữ lưu của nước Chơn Lạp.
Vua Nặc-Tôn tánh ưa điền điệp (1) thường hay vui thú lâm tuyền, bữa nọ đem quân sĩ và chó săn lên núi Tà Lơn đi săn, nàng Chất-băng-nhã ở trong cung một mình, bèn ra sau Ngự viên dạo cảnh chơi hoa, xem cây cỏ cho tiêu sầu khiển muộn.
Lúc bấy giờ trong một cái đền ở gần ngự viên, là đền của vua em tên là Nặc-Vinh, ông Hoàng nầy trạc chừng ba mươi mấy tuổi, diện mạo đoan trang, đương đứng trong đền ngó ra hoa viên, thấy nàng Chất-băng-nhã đi thơ thẩn một mình, theo mấy vòng bông, xem rất xuê sang đẹp đẽ, liền tuốt ra cửa sau, thỉnh thoảng bước vào hoa viên, thấy nàng ấy đương vói tay hái một nhánh bông tường vi, rồi nhắm nhía xăm soi, vừa để lên ũi mà huởi.
Hoàng Nặc-Vinh liền bước lại một bên, mỉm cười mà nói nhỏ nhẽ rằng:
– Chào Hoàng phi, Hoàng phi đi dạo hoa viên một mình, vậy chẳng là buồn bực lắm chăng?
Nàng Chất-băng-nhã nghe nói liền day lại thấy Hoàng đệ là Nặc-Vinh thì ngạc nhiên có vẻ sượng sùng, rồi thối lui ra hai ba thước mà đáp rằng:
– Chào Hoàng đệ, tôi nhơn hoàng cung rảnh việc, nên ra dạo chơi kiểng vật giải buồn, hoàng đệ vào đây bây giờ, tôi mắc xem hoa, nên không thấy mà tiếp chào, vậy xin miễn lễ.
Hoàng Nặc-Vinh ngó chăm chỉ nàng ấy rồi mỉm cười mà nói rằng:
– Tôi đương ở trong đền, thấy vương phi đi một mình, thế cũng sầm tịch quạnh hiu, nên lật đật ra đây hầu chuyện cùng vương phi cho giải muộn.
Nói rồi day lại bẻ một nhành bông tường vi, dâng cho nàng và nói tiếp rằng:
– Xin lỗi vương phi, tôi coi ý tưởng vương phi thích bông tường vi nầy lắm, nhưng chẳng biết vương phi xem sắc bông ấy có đẹp chăng?
Nàng Chất-băng-nhã nghe hỏi, mỉm cười mà đáp rằng:
– Thưa tôi lấy làm thích ý, tôi xem sắc bông ấy đẹp lắm, nội hoa viên nầy muôn tía ngàn hồng, nhưng tôi xem lại thì chẳng bông nào sánh đặng.
Hoàng Nặc-Vinh liền bước xích lại, cười và nói rằng:
– Thật vương phi nói chẳng sai lời, theo ý tôi cũng cho sắc bông ấy là đẹp lắm; nhưng mà tôi tưởng còn một sắc nữa rất đẹp đẽ bội phần, là cái sắc của vương phi đó vậy, và mùi thơm tho bông ấy cũng kém hơn cái mùi thơm của vương phi đây nữa.
Nàng Chất-băng-nhã nghe nói thì có vẻ thẹn thuồng, rồi hai má đào non, bỗng chút rần rần ửng đỏ và đáp lại rằng:
– Tôi là một gái tầm thường trong hàng cung phi, xin hoàng đệ chớ nên quá khen, làm cho tôi thẹn lòng e lệ.
Hoàng Nặc-Vinh ngó nàng ấy chăm chỉ, rồi mỉm cười mà nói rằng:
– Tôi chẳng phải muốn điều dua mị mà quá khen vương phi vậy đâu, thật rõ ràng vương phi là một người sắc nước hương trời, mình ngà vóc ngọc, làm cho ai thấy cũng phải mê mẩn tâm hồn, động tình ái mộ, mà nhứt là tôi đây đã mắc chứng đa tình thì không thế gì giằng đặng. Vậy nếu vương phi đem lòng đoái tưởng, chẳng chê tôi là kẻ lãng hạnh cuồng sanh, thì xin vương phi bước tới Hoa đình, đặng tôi tỏ ít lời tâm sự.
Nàng Chất-băng-nhã nghe nói thì có vẻ e lệ rồi đáp rằng:
– Sự nầy là một sự rối loạn luân thường, xin Hoàng đệ chớ làm như vậy không nên, nếu quốc vương hay ra, thì chẳng những trong vòng anh em sanh sự cừu thù, mà tôi đây cũng chẳng khỏi phạm nhằm đại tội.
Hoàng Nặc-Vinh nói:
– Quốc vương người đã nhàn du điền điệp, chẳng có trong cung, chỗ nầy là chỗ tịch mịch cấm viên, ai dám vào đây mà hoàng phi ái ngại
Nói rồi bước lại nắm tay nưng lên và tỏ cách tha thiết rằng:
– Nàng ôi! Cái ái tình tôi đối cùng nàng bấy lâu, những mảng thầm thương trộm nhớ trong lúc tịch mịch canh trường, cái tình ấy đã dồn dập trong lòng tôi, xiết bao là ngày trông tháng đợi, nay may gặp được dịp nầy, vậy xin nàng hãy vui lòng cho tôi gần đặng cái vóc ngọc mình vàng của nàng đây, mà tỏ nỗi tình riêng, cho thỏa chút bình sanh sở nguey65n, thì rất vinh hạnh cho tôi biết là dường nào.
Nói rồi nắm tay Chất-băng-nhã dắt vào Hoa đình lân la trò chuyện.
Lúc ấy có một nàng công chúa đi với hai đứa cung phi, cũng ra dạo hoa viên, người xem bông, kẻ nhắm kiểng, dắt nhau đi rảo theo mấy vòng hoa, khi chuyện chuyện, lúc trò trò, khi cười cười, lúc nói nói, quanh qua lộn lại, ước đặng một hồi lâu, khi đi gần tới hoa đình, một nàng cung phi bước ra khỏi vòng cây, xảy thấy Hoàng đệ với nàng Chất-băng-nhã dắt nhau bước vào hoa đình, thì biết hai người sanh sự gian dâm tình tệ, liền day lại nói nhỏ với công chúa rằng:
– Thưa công chúa chẳng biết hai người nào dắt nhau vào trong hoa đình, tôi xem giống hình hoàng đệ là Nặc-Vinh với vương phi là Chất-băng-nhã.
Công chúa nghe nói lấy làm lạ và nói rằng:
– Chỗ nầy là chỗ cấm viên của vua cha ta, chỉ có hoàng hậu vương phi cùng các chị em ta được vào đây mà nhàn du ngoạn cảnh vậy thôi, kỳ dư bất luận là Hoàng thân quốc thích, bất luận là đế tử vương tôn nào, cũng đều cấm tuyệt, không ai được vào đây mà nhàn du hết cả, nay sao Hoàng thúc lại dám phạm cấm luật, thâm nah65p vào đây, mà trò chuyện vì với vương phi như vậy? Cũng là một điều rất trái,
Nói rồi liền dắt hai nàng cung phi, lén lại đứng dựa hoa đình, rình coi một hồi, thì nghe hai người đương ngồi trò chuyện cùng nhau nhỏ to thầm thỉ.
Công chúa liền vội vã trở gót vào cung, đặng chờ vua cha trở về, sẽ đem hết sự tình tâu lại.
Kế bữa sau vua Nặc-Tôn đi điền điệp về, công chúa liền đem hết sự tình tệ trong ngự viên, tâu lại cho vua cha nghe.
Vua Nặc-Tôn nghe rồi liền nổi trận lôi đình, vỗ bàn mắng Hoàng Nặc-Vinh là đứa mạng pháp triều đình, loạn luân ngỗ nghịch, tức thì giáng chỉ đày Nặc-Vinh ra trấn thủ biên thùy, chẳng cho ở tại quốc đô triều điện, và đòi nàng Chất-băng-nhã đến bắt tội và hỏi rằng:
– Chất-băng-nhã, mi là đồ thất tiết nữ lưu, dâm ô xũ phụ, trong khi ta đi nhàn du đei62n điệp, sao mi dám ra cấm viên mà dan díu cùng Nặc-Vinh, tôi mi đã đáng phân thây, đặng để làm gương mà răng loài dâm phong ác tục.
Chất-băng-nhã thấy vua Nặc-Tôn phừng phừng thạnh nộ, thì run rẩy khép nép mà thưa rằng:
– Tâu quốc vương, xin quốc vương bớt cơn thạnh nộ, lấy lượng hải hà, thẩm xét sự ấy cho thiếp nhờ, kẻo ức lòng tội nghiệp. Từ khi quốc vương đi nhàn du điền điệp, thiếp ở một mình trong cung buồn bực, nên ra hoa đình hứng mát xem bông cho khuây lãng tâm thần, đặng giải cơn phiền muộn, chẳng dè Hoàng đệ là Nặc-Vinh, mong lòng tà dục. Chẳng kể cốt nhục luân thường, thình lình lén đến cấm viên, rồi lấy lời nghẹo nguyệt trêu hoa mà làm sự tồi phong bại tục, song thiếp chỉ giữ một lòng vàng đá cùng quốc vương, chẳng hề dám làm điều chi trái lẽ, rồi lật đật vào cung, đặng chờ quốc vương trở về, sẽ đem hết sự tình tệ Nặc-Vinh, tỏ bày cho quốc vương rõ biết. Vậy xin quốc vương xét lại mà coi, chỗ cấm viên nầy là chỗ của quốc vương lập ra, để cho Hoàng hậu và chị em chúng tôi ra đó hứng mát xem hoa, ngoài ra, bất luận là quốc thích hoàng thân, chẳng một ai được phép loạn vào hoa viên mà xem hoa nhắm kiểng. Nay hoàng đệ Nặc-Vinh đem lòng tà dục, lén đến bức ép thần thiếp trong chốn hoa đình, tội ấy là tự nơi hoàng đệ gây ra, chớ thần thiếp đâu dám sanh điều tình tệ. Quốc Vương ôi! Xin quốc vương suy đi xét lại, từ khi thần thiếp mang ơn võ lộ, mà được quốc vương tuyển trạch vào cung đến nay, dẫu thần thiếp ở cùng quốc vương một ngày, cũng là nghĩa vợ tình chồng, thiếp phải giữ một lòng trinh bạch mà đối phó cùng quốc vương, cho trọn chữ luân thường, chớ lẽ nào thiếp dám đem thói lãng hạnh bạc tình, làm cho nhục nhơ danh tiết vậy sao? Vậy xin quốc vương mở lượng nhơn từ, khoan dung tha thứ, nếu Quốc vương ban ơn mưa móc, rưới xuống cho thân phận một gái liễu bồ, thì dầu thiếp thịt nát xương tan, cũng quyết giữ ngọc gìn vàng cùng quốc vương, chẳng dám dời lòng đổi dạ.
Nói rồi nức nở khóc lên, xem sắc mặt rất âu sầu thảm đạm.
Vua Nặc-Tôn nghe nói liền ngó nàng ấy cách nghiêm nghị và vỗ bàn mà nói lớn rằng:
– Chất-băng-nhã, mi đã làm một vị vương phi, ăn sung mặc sướng, sao mi không biết giữ cái danh giá mi cho xứng đáng một gái trung trinh liệt nữ, một bực hoàng hậu vương phi, lại đem thói trắc nết lang dâm, vào giữa hoa đình, trò chuyện với Nặc-Vinh, làm cho nhục nhơ danh tiết, mà mi còn lão khẩu chối sao? Ta nói cho mi biết, cái thứ gái lang tâm cẩu hạnh, mèo mã gà đồng như mi vậy, ta xem như một vật thúi tha, thấy mà phải khạc miếng nhổ đàm, thấy mà phải chán nhớm gớm ghét, nếu để mi thì chẳng những mi lây sự dơ dáy trong chốn cung đình, lại bay cái tiếng nhục nhơ ra cả triều quận. Những gái hèn mạt như mi, dẫu cho một bực hạ lưu dân giã cũng chẳng muốn dùng, huống hồ là một bực quốc vương như ta, ngôi cao tước trọng, phú quới vinh hoa, nội trong nước nầy, lại không lựa được một bực quốc sắc thuyền quyên, trung trinh tiết hạnh hay sao mà phải dùng một gái dâm ô như mi, cho rối loạn triều cương, cho ô danh sĩ tiết. Chất-băng-nhã, hỡi mi, mi phải biết rằng: cái tôi dâm ô trắc nết của mi ngày nay, ta không thế nào dung thứ mi đặng, cái tội mi đã đáng làm một con quỉ không đầu ở dưới lưỡi đao của ta, đặng mà răng thói dâm ô của đoàn phụ nữ. Chất-băng-nhã, ta hỏi mi, nếu mi thiệt là một gái trung trinh liệt nữ, tiết hạnh thuyền quyên, mi biết giữ một lòng, một dạ, như sắt như đinh, dầu Nặc-Vinh là một đứa cường bạo dâm ô, cũng chẳng thế nào gần gũi mi được mà chuyện trò dan díu, nay cái tình tệ mi đã bại lộ ra rồi, mi còn gì mà chối từ nữa đặng.
Nói rồi liền đòi công chúa, cùng hai nàng cung phi ra hỏi chứng cớ rõ ràng, bèn truyền lịnh cho quân đao phủ đem Chất-băng-nhã ra ngoại thành xử trảm.
Chất-băng-nhã thất kinh liền hạ mình quì ngay trước mặt vua Nặc-Tôn, khóc lóc và kiếm lời năn nỉ nói rằng:
– Ôi quốc vương ôi! Sự nầy là tại Hoàng đệ sanh lòng dâm loạn, làm cho tiện thiếp phải chịu hàm oan, dầu thiếp cùng quốc vương gá nghĩa một ngày, cũng phải giữ vẹn trăm năm danh tiết, lẽ đâu thiếp dám đem thói bạc tình, mà làm cho nhục nhơ phẩm hạnh vậy sao? Xin quốc vương lấy lượng nhơn từ đại độ, dung thứ cho một gái bạc mạng hàm oan nầy, đã quì dưới đây mà khóc lóc khẩn cầu cùng quốc vương và xem trông quốc vương như một vị phật tổ Đi Đà, thiên tôn Bồ tát, nếu quốc vương lấy lòng trời phật dung thứ cho thần thiếp một phen; thì cũng như quốc vương tu tạo cữu cấp phù đồ, mà siêu độ kẻ trầm luân khổ hải, thần thiếp xin thệ một lời cùng trời phật và quốc vương: từ đây về sau, thiếp chẳng dám để cho ai làm điều chi loạn luân nghịch lý.
Vua Nặc-Tôi trầm tư mặc tưởng một hồi, rồi hạ lịnh dạy nội thị đem nàng Chất-băng-nhã bỏ vào cấm cung một năm, chừng mãn hạn sẽ đuổi về dân giã.
Nàng Chất-băng-nhã bị vua Nặc-Tôn đày vào cấm cung chẳng đầy hai tháng, mà giọt sầu lai láng xem tháng dường năm, đêm nọ vào khoảng canh ba, thoạt nhiên trong cấm cung phát lửa cháy lên rất dữ, quân nhơn lật đật vào đền báo cho vua hay, vua và các quan chạy ra thấy cung thất đã cháy tiêu, vua Nặc-Tôn day lại nói với các quan rằng:
– Cái cung nầy là chỗ của nàng Chất-băng-nhã ở, nay đã bị lửa cháy tiêu, thế thì Chất-băng-nhã phải chết.
Nói rồi liền truyền quân bươi lửa cào than, kiếm coi có thây của nàng ở trong hay chăng đặng cho mai táng.
Quân lính bươi kiếm một hồi, bỗng thấy một cái thây đã nám mặt phồng da, co đầu rút cổ, bọc lộ thi hài, mình mẩy đều cháy đen như than, xem rất gớm ghê kỳ dị
Vua Nặc-Tôn thấy vậy thì bàn nghị với các quan rằng:
– Xự nầy tại nàng Chất-băng-nhã đem thói bạc tình lãng hạnh, tánh nết xấu xa, làm cho rối loạn luân thường, nên ngày nay phải bị lửa trời sát hại.
Nói rồi, vua tôi kéo nhau về cung, và truyền quân tẩn liệm thi hài, rồi đem ra ngoại thành mai táng.
Cách ít lâu đến ngày chúc thọ cho vua Nặc-Tôn, các quan vào triều chúc mừng cho vua xong rồi, kế thấy một người đến trước cửa đền cầu xin ra mắt.
Vua Nặc-Tôn nghe báo liền truyền lịnh cho vào và hỏi rằng:
– Ngươi ở đâu có việc chi mà cầu xin ra mắt hãy nói cho ta nghe.
Người ấy liền quì mọp trước đền bái yết xong rồi, tâu rằng:
– Tâu quốc vương, tôi là người ở Ô-đông, có qua xứ Bắc-tâm-bang (Battambang) lập đặng một bọn hát múa gươm đánh võ theo cách hát Xiêm. Nay tôi nghe đến ngày làm lễ chúc thọ quốc vương, nên đến xin quốc vương cho chúng tôi vào đền, trước là dâng một thứ hát đặng chúc thọ quốc vương, sau là diễn một tấn tuồng lạ cho quốc vương xem chơi giải muộn.
Vua Nặc-Tôn nghe nói thì vui lòng, liền day bảo người ấy rằng:
– Vậy thì đêm mai, ngươi phải đem bọn hát vào ngự viên, và lựa một suất tuồng cho thiệt hay mà diễn cho ta xem thử.
Tên ấy phụng mạng lui ra, rồi trở về sắp đặt bọn hát, đặng đêm mai sẽ vào ngự viên mà diễn kịch.
Nguyên đêm đầu vua có thiết bày yến tiệc tại ngự viên, mời hàng các quan văn võ đến hội yến, khi vua và các quan yến ẩm rồi thì có các cô mái hát rầm, mỗi người đều cầm một cây đèn sáp, và nai nịch đồ sắc phục rằn rực đỏ xanh, rồi kéo ra giữa ngự viên, tay huơi đèn, chơn rảo bước, khi cúi mọp xuống, khi nẩy ngửa ra, khi xơm tới, lúc thối lui, nhún lại sang qua, múa men cách dịu dàng uốn éo, xem mấy ngọn đèn quanh quanh lộn lộn, hai bên mình các cô cô mái, nháng ra muôn vàn hào quang, sáng lòa rực rỡ.
Khi múa đèn xong rồi, các cô mái lại lấy mỗi người một cái lục lạc, thứ lớn thứ nhỏ, tiếng kêu khác nhau, rồi ra trước ngự đình, tay thì rung lục lạc, chơn thì rảo múa, một bên sân hát, có đánh nhạc ngũ âm, tiếng lục lạc hòa với tiếng ngũ âm, cái thì kêu rổn rổn, cái thì giọng ken ken, in nhịp in nhàng, rập bồn rập bác, nghe rất thanh tao êm ái.
Qua đêm sau, vua và các đình thần đều ra ngự viên xem bọn hát Bắc-tâm-bang, thấy trước sân hát đã bài trí kiểng vật nghiêm trang, và sắp đặt cuộc hát có lớp lang thứ tự, trống chiêng inh ỏi, cờ xí rỡ ràng, hai bên sân hát gươm giáo đều la liệt giăng hàng, và đèn đuốc thắp lên sáng rỡ. Kế thấy trong buồng hát kéo ra mười người, đều mặc y phục theo Xiêm, xem rất hoa mỹ, đứng giữa sân hát chúc thọ cho vua xong rồi, liền trở vào buồng, một chập thấy trong buồng kéo ra hơn hai mươi con hát, mỗi người đều mặc võ phục gọn gàng, và tay cầm chỉa ba, lưng dắt đoản kiếm, trước sân hát có treo một tấm bảng đề chữ nói rằng: “Suất tuồng nầy là suất diễn võ.”
Kế thấy hai người trong buồng chạy ra, một người tay cầm trường thương, và mang một cái mặt nạ vằn vện dữ dằn, như một vị lôi công, và một người tay cầm song đao, cũng mang một cái mặt giả, xem tướng mạo như một vị thần nữ, đầu đội mão như mão kim khôi, mình mặc võ phục sát da, như một cái thiết giáp; tướng mạo hung hăng, xem rất kỳ quan dị mục. Cả hai huơi gươm múa giáo, xốc lại sang quan, tiếng giáo đụng với tiếng ươm, nghe kêu keng kẻng.
Vua Nặc-Tôn và các quan ngồi trước trước ngự đài, đương chăm chỉ xem coi, thình lình bỗng nghe một tiếng pháo nổ lên rất to, tức thì hai tên múa giáo ấy chạy xốc ra nhảy lên ngự đài, rồi lại đâm vua Nặc-Tôn một thương, vua Nặc-Tôn tranh không kịp, bị tên ấy thích một mũi giáo vô ngực, tức thì nhào xuống chết liền.
Các quan ai nấy đều thất vía kinh hồn, kế thấy ngoài ngự viên rần rần kéo vô hơn hai trăm quân lực sĩ võ đao, áp lại phủ vây chung quanh ngự đài, mỗi người đều chốn giáo hươi đao, hầm hầm sát khí.
Các quan thấy vậy đều run rẩy kinh hoàng, chẳng một ai dám ra cản ngăn chống trả.
tên mang mặt nạ vằn vện kia, giết chết vua Nặc-Tôn rồi, liền chống giáo đứng trước ngự đài và nói lớn lên rằng:
– Các quan hãy nghe ta nói. Quốc triều nầy là sự nghiệp của vua cha ta để lại, mà Nặc-Tôn chẳng kể anh em, lại chiếm đoạt một mình, rồi đày ta ra chốn góc biển đầu non, chẳng cho chung hưởng sự vinh hoa phú quý, và xem cái triều đình nầy cũng như một món đồ riêng trong túi; nên ta phải giết Nặc-Tôn, đặng lên ngôi nối nghiệp tổ tông và cấm quyền chánh trị; các quan ai thuận tình, thì ta thưởng tước phong quan, bằng nghịch mạng thì chớ trách rằng: gươm nầy là giống tàn nhẫn sát hại.
Nói rồi liền lấy cái mặt nạ xuống, các quan ai nấy ngó lên thấy tên ấy rõ ràng là Nặc-Vinh, là em của vua Nặc-Tôn, thì đều sững sờ kinh dị; đó rồi Nặc-Vinh bước lại lấy cái mặt giả của người kia ra, thì thấy người ấy là nàng hầu của vua Nặc-Tôn khi trước là nàng Chất-băng-nhã, chừng ấy các quan đều ngơ ngẩn sững sờ như giấc chiêm bao, không biết Chất-băng-nhã nào đã bị cháy trong cấm cung, còn Chất-băng-nhã nào nay lại sống đó?
Nặc-Vinh giết vua anh rồi, liền kéo binh vào đền, đặng tìm kiếm Hoàng tử mà giết cho tuyệt tộc.
Lúc bấy giờ may có một quan bảo giá, tên là Chiêu-căng-mu, vẫn là người trung thành nghĩa dõng, thấy Nặc-Vinh dấy loạn giết anh soán ngôi liền dắt vợ con vua Nặc-Tôn trốn ra ngoài thành, rồi chạy xuống Long Xuyên mà đào nạn.
Khi Chiêu-căng-mu cứu vợ vua Nặc-Tôn và hoàng tử là Nặc-In, với một nàng công chúa ra khỏi thành đô Cao Man, rồi dắt nhau chạy xuống Long Xuyên kiếm nơi trú ngụ.
Bữa nọ hoàng hậu khóc nức nỡ và nói với quan bảo giá là Chiêu-căng-mu rằng:
– Quan bảo giá người ôi! Chồng ta đã bị Nặc-Vinh sát hại, mẹ con ta nhờ người ra tay cứu nạn mà được sống sót ngày nay, cái ơn của người tế khổn phò nguy, mẹ con ta ngàn năm cũng còn ghi lòng tạc dạ, nếu không người thì mẹ con ta cũng chẳng khỏi Nặc-Vinh sát hại. Quan bảo giá người ôi! Cái huyết mạch của tiền vương, bây giờ chỉ còn một hoàng tử đây thôi, vậy thì cái sanh mạng của mẹ con ta ngày nay, xin gởi gắm nơi tay người là kẻ bảo hộ cho con cái ta, vậy người hãy lo liệu thế nào, mà khôi phục cơ đồ, và báo oán rửa hờn cho chồng ta, là vua Nặc-Tôn, thì cái oan hồn uổng tử của chồng ta ở dưới cữu tuyền, cũng kết cỏ ngậm vành, mà cám ơn người là một đấng trung thần nghĩa sĩ. Quan bảo giá người ôi! Ngươi có biết trong triều ngoài quận, bây giờ còn ai là kẻ có lòng phò nguy tế khổn, còn ai là kẻ liệt sĩ trung thần nữa không, đặng cầu cứu cùng người mà đồ mưu thiết kế thì mới đặng.
Nói rồi khóc lóc nỉ non, chứa chan giọt lụy.
Chiêu-căng-mu nghe hoàng hậu than thở và han hỏi mấy lời, thì ngẫm nghĩ một hồi rồi lắc đầu mà đáp rằng:
– Nặc-Vinh là một đứa loạn luân tàn bạo, lại đương lúc thế mạnh binh cường, tôi xem nội triều các quan văn võ thảy đều là lũ dua mị cầu vinh, tham sanh húy tử, lúc thới bình thì chúng nó là bực lộc trọng danh cao, mà cơn bát loạn thì bọn ấy là loại gà sành chó đất, chúng ta bấy giờ không còn trông mong gì đến bọn ấy nữa đặng.
Công chúa thấy mẹ than thỉ khóc lóc với quan bảo giá Chiêu-căng-mu thì cũng động lòng rơi lụy rồi nói rằng:
– Mẹ ơi! Con thấy trong lúc phụ vương sanh tiền, mỗi năm thường đem lễ vật mà cống sứ vua Xiêm, nay gặp lúc nước loạn nhà nghiêng, mẹ con ta nhơn dịp nầy, sai người cầu cứu vua Xiêm, học may người nghĩ tình cựu hảo lân bang, đem binh cứu giúp, đặng khôi phục cơ đồ và giết quân nghịch mà trả thù báo oán thì mới đặng.
Hoàng hậu nghe công chúa nói, còn đương nghĩ suy lưỡng lự chưa biết quyết định lẽ nào.
Lúc bấy giờ hoàng tử Nặc-In mới vừa sáu tuổi, đứng một bên mẹ thấy chị là công chúa nói vậy, cũng rưng rưng nước mắt rồi ngó mẹ mà nói rằng:
– Mẹ ơi! Con nhớ năm ngoái, quan sứ của Xiêm có cho con một cây gươm tốt quá, để con lấy gươm ấy giết chết quân nghịch mà trả thù cho cha đặng không?
Nói rồi cah5y lại lấy cây gươm bằng cây, sơn son phết vàng, đem ra đứng trước mặt mẹ, một tay chống nạnh, một tay cầm gươm, trợn mắt phùng mang, rồi nói với chị là công chúa rằng:
– Chị, mọi lần tôi lấy gươm nầy đánh giặc với mấy đứa bầy trẻ trong cung, chúng nó thất kinh chạy hết, chị không thấy sao?
Công chúa thấy hoàng tử còn nhỏ, mà lời nói có khí phách hùng hào, thì mỉm cười rồi kéo hoàng tử lại đứng bên mình, vuốt ve và nói rằng:
– Nặc-In, em ôi! Phụ vương bị quân nghịch giết rồi, bây giờ chị em mình, còn mẹ góa con côi, thế cô sức yếu, trong triều đều là lũ tham quan ô lại, là bọn giá áo túi cơm, chỉ có một quan bảo giá đây là người có nghĩa đởm trung thành, theo phò hộ mẹ con ta đó thôi, chớ không còn biết ai mà nương nhờ tin cậy, thế thì phải cầu cứu nước khác giúp mình, họa may mới đặng trả thù rửa hận.
Hàong hậu nghe công chúa nói, thì ngó Chiêu-căng-mu mà hỏi rằng:
– Quan bảo giá ôi! Người có thế chi cầu cứu vua Xiêm đặng chăng?
Chiêu-căng-mu nghĩ nghị một chút rồi day lại đáp rằng:
– Bẩm hoàng hậu, bên Xiêm lúc bây giờ còn đương nổi loạn, trong nước chưa yên, dầu có cầu cứu nơi người, e cũng uổng công vô ích, chi bằng ta cầu cùng nước Việt Nam là Đức Nguyễn Ánh, bây giờ người làm Đại nguyên soái tại Saigon, binh ròng tướng giỏi, pháo nhạy thuyền đông, và lại cận tiện nước bước đường đi, thế cũng dễ việc tấn binh cứu cấp, vậy xin hoàng hậu để cho kẻ hạ thần bổn thân đi xuống tỉnh thành Saigon, đặng cầu xin Đức Nguyễn Ánh đem binh cứu viện, thì họa may mới đặng thành công.
Hoàng hậu nghe Chiêu-căng-mu bàn nghị mấy lời, rất hiệp ý bằng lòng, rồi rưng rưng nước mắt mà đáp rằng:
– Quan bảo giá người ôi! Sự nầy là mẹ con ta xin phú thác cho người lo liệu, xin người ráng sức đồ mưu toan kế, mà giúp đỡ nước nhà, may đặng khôi phục cơ đồ, thì công ơn nhà ngươi sẽ ghi chạm nơi giữa đền vàng, mà lưu truyền hậu thế.
Chiêu-căng-mu liền sắp đặt hành trang, và từ giã hoàng hậu rồi đi với ít tên quân nhơn, thẳng xuống Saigon, vào nhà sứ quán nghỉ ngơi, sáng bữa sau đến trước dinh môn, xin vào ra mắt.
Đức Nguyễn Ánh bữa ấy ra giữa soái phủ, hai bên có các tướng văn võ hội tề; kế quân hầu vào báo rằng có quan bảo giá nước Cao Man tên là Chiêu-căng-mu xin vào ra mắt.
Đức Nguyễn Ánh liền hạ lịnh cho vào.
Chiêu-căng-mu lật đật vào dinh bái yết xong rồi, Đức Nguyễn Ánh mời ngồi nơi ghế mà hỏi rằng:
– Quan bảo giá đến đây có việc quốc sự chi chăng?
Chiêu-căng-mu khép nép thưa rằng:
– Bẩm lịnh Nguyên soái, tôi có một việc quốc sự rất ngặt nghèo, nên bôn tẩu đến đây, cầu xin Nguyên soái đem binh cứu trợ, trong nước tôi mới sanh ra một cuộc đại biến, quốc vương tôi là vua Nặc-Tôn bị em là Nặc-Vinh giết chết, dành nước đoạt ngôi, làm cho cả nước Cao Man lê dận đều thánh oán. Nặc-Vinh nầy là một đứa tham tàn bạo ngược, gây nên một sự rối loạn triều cương, và ỷ thế cậy oai, mà làm chuyện thương tàn cốt nhục, nên kẻ thần hạ liều sanh xả tử, phò tá hoàng hậu cùng hoàng tử đào nạn xuống đây, đặng cầu cứu cùng đại bang Nguyên soái, xin Nguyên soái niệm tình chúa tôi là lân bang tiểu quốc, thì đem binh diệt loạn phò nguy, khôi phục cơ đồ cho nước tôi và tôn hoàng tử Nặc-In lên ngôi, nối nghiệp tiền vương, đặng cho quốc thới dân khương, hưởng sự thăng bình hạnh phước, chừng ấy tệ bang sẽ xin phục tùng dưới quyền bảo hộ của quới quốc, mà thọ tước xưng thần, ngõ hầu nhờ chút bóng cờ Việt Nam chở che, thì quốc vương ôi và cả thảy thần dân đều cảm đội ơn đức của Nguyễn soái vô cùng, chẳng hề dám quên lời giao ước.
Đức Nguyễn Ánh nghe nói liền hỏi rằng:
– Nặc-Vinh giết anh soán ngôi như vậy, cả triều thần nước người chẳng có một ai ra mà phò nguy dẹp loạn đặng sao?
– Bẩm Nguyên soái cả triều thần và quốc dân thẩy đều bất bình, nhưng thấy Nặc-Vinh thế mạnh binh nhiều, nên không ai dám ra đối đương kháng cự, chỉ có kẻ hạ thần với một hai người trung nghĩa, thấy vậy chẳng lẽ mặc thị điềm nhiên, song thế yếu sức cô, nên phải phò tá hoàng hậu cùng hoàng tử xuống đây, ngõ cầu cứu với đại bang, đặng khử trừ quân giặc.
(1): điền điệp là săn bắn.