Đoạn nầy Hà Mậu ra về,
Long môn đất ấy quán quê xưa rồi.
Trạc nhìn nhà cửa hỡi ôi!
Ngói chài nóc sập vách vôi gạch nhào.
Ổ vò lưới nhện lao xao,
Trước sân cỏ lán ngoài rào ngả xiêu.
Vợ con dấu trước vắng hiu,
Bếp còn ốc đẻ thềm nhiều dế ngâm. (3200)
Họ Hà thấy vậy động tâm,
Hai hàng nước mắt ra dầm chéo khăn.
Chưa hay duyên cớ sao rằng,
Tới nhà em gái hỏi phăng sự tình.
Mới hay rằng việc bất bình,
Liễu thơ trước đã bỏ mình về quê.
Tuyết B8ng hai gái dương xuê,
Ở cùng quan Trấn bỏ nghề Gia Tô.
Mậu rằng: Hai trẻ cải đồ,
Thật trời xui khiến còn mồ mả sau. (3210)
Cám thương họ liễu thác mau,
Vợ chồng chẳng gặp theo nhau buổi nầy.
(Bị lược bỏ do kiểm duyệt)
Bà con dòng họ một phồn,
Nghe lời nói lạ tới dồn hỏi xăng.
Mậu rằng: Nói việc Hà Năng,
Cho con cháu biết kẻo rằng đạo hay.
Đốt nhiều vàng bạc thời may,
Vái ông khỏi mắc ăn mày âm cung.
Ai ai nghe cũng não nùng,
Đều lau nước mắt khôn cùng thở than. (3220)
Tiếng đồn ra khắp các làng,
Châu Kỳ tới viếng hỏi han việc đời.
Kỳ rằng: Muốn thấu đạo trời,
Mười lăm năm trọn nối hơi đến giờ.
Đã đành dấu trước bơ vơ,
Đuốc xao vì gió trăng lờ bởi mây.
(Bị lược bỏ do kiểm duyệt)
Đội ơn anh có công đi,
Phải chăng đã thấy còn nghi lẽ nào.
Ví như một tấc a giao,
Mấy nguồn nước đục lòng vào đều trong. (3230)
(Bị lược bỏ do kiểm duyệt)
Nay ta cứ gốc mà phăng,
Theo đường nhân nghĩa chí bằng đạo Nho.
Trời sanh có một đạo Nho,
Ngàn nghề muôn nghiệp đều lò ấy ra.
Cứ theo đơm quảy ông bà,
Quỉ thần chẳng giận mồ ma không hờn.
Nay đà rõ đặng nguồn cơn,
Dạy đời con cháu đội ơn thánh hiền.
Từ đây hai họ đều truyền:
Bao nhiêu tả đạo đều nguyền đốt kinh. (3240)
Phút đâu quan Trấn hay tình,
Đòi Hà Mậu tới hỏi minh mọi lời.
Tuyết Băng hai gái nhờ trời,
Cha con vầy hiệp mọi nơi vuông tròn.
Cho hay người cách nước non,
Thác thời mất dấu sống còn gặp nhau.
Tần Khanh gạn hỏi đuôi đầu,
Họ Hà thưa việc trước sau tỏ tường.
Liền sai quan huyện Nam Khương,
Dạy Trần Đoan rước họ Dương đem về. (3250)
Yến diên thết đãi phủ phê,
Cùng nhau bàn luận mọi bề phải chăng.
Việc trong trời đất mấy tầng,
Thấy đâu nói đó nào từng có quên.
Dương Từ Hà Mậu hai tên,
Tần Khanh dâng sớ tâu lên cửu trùng.
Tấn vương xem sớ lạ lùng.
Chỉ đòi nội vụ thảy cùng lai kinh.
Tần Khanh vâng chỉ lai kinh,
Cha con hai họ sửa mình đều đi. (3260)
Tấn vương ngự trước đan trì,
Cho vào ra mắt một khi xem tường.
Tả biên quì tấu họ Dương,
Anh em Trân Bửu hai chàng tân khoa.
Hữu biên quì tấu họ Hà,
Chị em Băng Tuyết nết na dịu dàng.
Tấn vương phán trước ngai vàng,
Dương Từ Hà Mậu hai chàng có công.
Chín Trời mười Đất đi thông,
Tìm ra mối đạo trong lòng mới an. (3270)
Bấy lâu chuộng thói dị đoan,
Đến nay mới biết lầm đàng đi ca.
Có lòng qui chánh cải tà,
Trời liền cho phước sanh ra con hiền.
Thêm giồi hai chữ lương duyên,
Song sanh đôi tốt phỉ nguyền giàu sang.
Việc nầy giao lại Trấn quan,
Chủ hôn hai họ cho an việc nhà.
Con hiền là báu nước nhà,
Đáng biên vào sử để ra khuyên đời. (3280)