May đâu có huyện Nam Khương,
Tên Trần Đoan tới dâng chương mừng hầu.
Mừng cho chín huyện bảy châu,
Ở an lạc nghiệp đọc câu thăng bình.
Tần Khanh ngồi chốn hậu dinh,
Đòi vào ban hỏi sự tình họ Dương. (2830)
Trần Đoan thưa chuyện họ Dương.
Mẹ con nhà cửa tỏ tường đầu đuôi.
Tần Khanh nghe rất mừng vui,
Cười rằng: Máy tạo khéo xui hiệp hòa.
Họ Dương sánh với họ Hà,
Song sanh điềm ấy đôi đà xứng hai.
Nấy cho quan huyện làm mai,
Xe dây Nguyệt Lão đặng hài lương duyên.
Trần Đoan vâng lịnh về liền,
Trở về tống bảng tờ truyền theo sau. (2840)
Rằng: Nay yên giặc Tây châu,
Tấn vương bệ ngọc mở chầu ân khoa.
Huyện quan viết bảng treo ra,
Rao cho sĩ tử gần xa đặng tường.
Anh em Trân Bửu hai chàng,
Đem nhau tới chốn huyện đàng ứng thi.
Anh em cùng đậu nhất thì,
Trở về sắm sửa cùng đi tựu trường.
Trần Đoan ngồi chốn hậu đường,
Đòi lại hai chàng nói chuyện cầu hôn. (2850)
Dạy về thưa với gia tôn,
Đều dùng sáu lễ nghinh hôn một lần.
Trước lo kết nghĩa châu trần,
Sau là một nỗi lập thân khoa nầy.
Hai chàng ngẫm nghĩ một giây,
Thưa rằng: Công học bấy chầy ra chi!
Ân vua đã mở khoa thi,
Để cho thử sức một kỳ sẽ hay.
May mà cánh nhạn cao bay,
Trấn quan khỏi tiếng bằng nay tư tình. (2860)
Chẳng may bảng hổ vô danh,
Huyện quan cũng khỏi nho sanh chê cười.
Trần Đoan nghe thấm mấy lời,
Dạy về lo liệu tới nơi khoa trường.
Hai chàng về lạy gia nương,
Cùng nhau bàn luận mọi đường gần xa.
Nàng rằng: Chút phận không nhà,
Mặc con toan liệu mẹ già cũng ưng.
Chớ lo dây đỏ vấn chưn,
Lo công nghiệp buổi thanh xuân cho tròn. (2870)
Sau dầu danh tạc bia son,
Trời dành trong sách có con gái hiền.
Hai chàng thâm ta nhà huyên,
Mang đồ tứ bửu lên miền Hà Đông.
Mười ngày lên tới Hà Đông,
Tìm nơi lánh ở mình không dạo đường.
Cùng nhau vô đủ ba trường,
Còn chờ treo bảng chưa tường đỗ không.
Trần Đoan lãnh việc mai dong,
Phải đi lên trấn theo cùng họ Dương. (2880)
Mắc đi chuyển vẫn dọc đường,
Tới nơi nghe chúng vào trường mới xong.
Hỏi tìm khắp hết tây đông,
Anh em Trân Bửu đều không gặp rồi.
Bảy ngày kiếm ngược kiếm xuôi,
Tới lui hai lẽ thẳng dùi khôn toan.
Muốn về ra mắt Trấn quan,
Sợ e người hỏi hai chàng huyện ta.
May vừa cửa bảng xướng ra:
Dương Trân tên họ thủ khoa chánh vì. (2890)
Cử nhân Dương Bửu thứ nhì,
Ba ngàn sĩ tử một khi khen giồi.
Yến diên áo mão ban rồi,
Trần Đoan đóng cửa rước lui hai chàng.
Đem ngay vào chốn công đàng,
Lễ dâng bốn lạy rỡ ràng nam nhi.
Trần Đoan bèn lấy quyển thi,
Dâng lên trước án một khi khen liền.
Dạy rằng: Hai gã thiếu niên,
Chữ danh đã toại chữ duyên thêm nồng. (2900)
Vàng ròng ta cũng chẳng dùng,
Muốn cho ngọc nhuận sánh cùng băng thanh.
Lứa đôi có số thiên thành,
Chờ khi tháng tốt ngày lành sẽ toan.
Nói rồi vào chốn hậu đàng,
Khiến đem hai chàng ra mắt phu nhân.
Phu nhân xem thấy rất mừng,
Rằng: Ơn trời khéo nhắm chừng định đôi.
Trai tài gái sắc phải rồi,
Nhà loan cửa phụng sánh ngôi vui vầy. (2910)
Sai người rước mẹ qua đây,
Chủ hôn cho trẻ kết dây sắt cầm.
Dương Trân Dương Bửu đồng tâm,
Thưa rằng: Còn nợ thanh khâm chưa rồi.
Trên đà thương cảm hai tôi,
Xin cho thỏa dạ rạng giồi công danh.
Đại khoa trước đã đặng thành,
Tiểu khoa sau lại phỉ tình bách niên.
Công rằng: Lời nói rất miêng,
Chữ quyền cùng với chữ duyên đi liền. (2920)
Thi hương sớm đã gặp duyên,
Chờ cho thi hội phỉ nguyền mới nên.
Nay đà làm lễ hỏi tên,
Keo sơn chữ dạ cho bền ngày sau.
Hai con qua chốn thơ lầu,
Ở chơi vài bữa sẽ âu về làng.
Tần Khanh lại dạy Trần Đoan,
Khá tua bậu bạn hai chàng đi chơi.
Huyện quan trước án vâng lời,
Phải theo Trân Bửu chơi nơi thơ lầu. (2930)