Bài đề hai chữ “Phong Lôi”,
Ngục nầy để trị bầy tôi gian tà.
Hung thay! Quỉ tốt Dạ Xoa,
Bắt bầy tôi nịnh đem ra hành hình.
Tay chơn đều có đóng đinh,
Nằm trên tấm thớt lõa hình trần phơi.
Người giăng nằm giữa ngó trời,
Người thời nằm sấp khắp nơi rẽ ròi. (1880)
Phút đâu một tiếng âm lôi,
Nổ ra sấm sét đánh bồi trên thây.
Trước sân lai láng máu đầy,
Tan xương nát thịt cái bầy quân gian.
Coi tên đề thuở Hán Đàng,
Thâp Thường Thị ấy với đoàn Hoạn quan.
Hành rồi sái phép kinh đan,
Thân hoàn hồn phách lại hoàn ngục giam.
Cũng vì một tấm lòng tham,
Sâu dân mọt nước đều làm chẳng công. (1890)
Làm tôi mang chữ bất trung,
Phép trong trời đất chẳng dung đứa nào.
Coi rồi cửa ấy tù lao,
Coi qua cửa khác những nào tội nhân.
Bài đề hai chữ “Hỏa Quân”,
Ngục nầy trị kẻ vô luân loạn thần.
Cột đồng cắm đứng trước sân,
Chế dầu lửa đốt rần rần như giông.
Lửa xe chói đỏ cột đồng,
Dạ Xoa dắt tới đàn ông một đàn. (1900)
Tay cầm roi sắt đáng phang,
Khiến xông vào đó ôm ngang cột đồng.
Thịt xương chói đỏ theo đồng,
Khói bay tanh khét như xông a ngùy.
Coi vào trong thẻ án ghi,
Họ tên lũ ấy một khi mới tường.
Thảy đều mắc tội hòa gian,
Vợ người đã lấy còn toan giết chồng.
Coi rồi phía tả đàn ông,
Ngó qua phía hữu rất đông đàn bà. (1910)
Trước sân đem vạc dầu ra,
Dầu sôi sục sục lửa ra rần rần.
Một bầy phụ nữ truồng trần,
Buộc vào để đứng lõa thân chịu hình.
Dạ Xoa cưa kéo nên kinh,
Cưa đầu tới đít rã mình làm hai.
Lòng hai người cũng chia hai,
Bỏ vô dầu nấu nấu hoài cho tiêu.
Coi vào trong thẻ án nêu,
Họ tên lũ ấy thảy đều dâm bôn. (1920)
Thông gian mình nghĩ rằng khôn,
Ở đời chẳng sợ tiếng đồn ô danh.
Coi chồng như đứa vô tình,
Ngày đêm nhũng mảng rập rình cùng trai.
Chê cười cũng trối thấy ai,
Kiếm lời che mắt lắp tai thằng chồng.
Dầu cho dại cũng là chồng,
Lòng sao dám nói nó không biết gì?
Rõ ràng chứng có tứ tri,
Việc trong buồng kín âm trì lại biên. (1930)
Giết chồng có phép nước chuyên,
Âm thầm có phép cửu tuyền cưa hai.
Cho hay những tội lấy trai,
Thiên tru địa lục ai ai nên chừa.
Tạo Y thấy vậy chẳng ưa,
Xem qua ngục khác phép ngừa đứa gian.
Bài đề hai chữ “Kim Cang”,
Ngục nầy để trị những đàn bất nhân.
Mấy thằng trộm cướp sát nhân,
Cối đồng xay giã tấm thân nát nghiền. (1940)
Làm con chẳng thảo chẳng hiền,
Mình treo cần sắt cung liền bắn lên.
Bắn cho văng thịt nhiều tên,
Hỏi ơn cha mẹ đã đền đặng chưa?
Mấy người ăn nói thiếu thừa,
Bắt kềm kéo lưỡi đưa ra khỏi hàm,
Kể sao xiết nỗi gian tham,
Dạ Xoa cứ phép đều đam hành hình.
Kim Cang đến cửa đã đành,
Cửa mười cũng nối sẵn dành theo đây. (1950)
Bài đề “Minh Lịnh” ngục nầy,
Để trị các bầy bại lễ loạn luân.
Loài người ăn ở bất phân,
Anh em lấy bậy bất phân làm ngừi.
Trẻ già nào trọn mấy đời,
Âm thầm chẳng biết hổ ngươi cùng trời.
Mây mưa quen thói nhớp đời,
Bà con nào kể lẽ trời nào kiêng.
Dạ Xoa theo án xử liền,
Bắt đoàn con gái ghe phen hành hình. (1960)
Kẻ thời đội chảo máu tanh,
Ngồi bàn chông sắt nhóm đoanh ruồi lằng.
Kẻ thì bưng mẻ đòi ăn,
Người bưng máu uống chưn trăng cổ xiềng.
Giường đồng lạnh lẽo để liền,
Bao nhiêu tội ấy thay phiên bắt nằm.
Trên đầu đội nước ướt dầm,
Sương sa lạnh lẽo ruột tằm héo don.
Lạnh lùng xương thịt hao mòn,
Để chi nhơ nhuốc nước non trên đời. (1970)