Đi vừa khỏi bãi Hoàng Sa,
Tới nơi cửa ải thấy đà nên kinh. (1730)
Cho hay dưới cõi u minh,
Rất nhiều âm tướng âm binh nhộn nhàng.
Bài đề rằng “Quỉ Môn Quan”,
Vô ra biết mấy mươi đàn tội nhân.
Người thời mắc tội vô luân,
Kẻ thời vô đạo rần rần dẫn ra.
Lũ kia con gái đàn bà,
Đàn nầy trai tráng ông giá xiết bao.
Chẳng hay dẫn tới ngục nào?
Nghe quân quỉ tốt miệng rao thẻ rằng: (1740)
Dương gian nhiều kẻ tham nhăng,
Trong nhà giàu có lòng hằng bất nhân.
Cho vay đặt nợ muôn phần,
Lợi trung gia lợi khổ thân nhà nghèo.
Không tiền lại bắt về treo,
Khiến làm đày tớ, ở theo việc nhà.
Gông cùm trăng trói dẫn ra,
Lăng xăng lũ bảy đàn ba chật đàng.
Kia là thơ lại nhà quan,
Chuộng bề xảo trá khoe khoang hơn người. (1750)
Trau giồi dao bút cho tươi,
Án sanh làm tử cất mươi xàng xàng.
Dắt người vào tội thác ngang,
Ham ăn của cải cho sang cửa nhà.
Nầy là công cổ chư gia,
Đều tham chữ “lợi” lại hòa chữ “gian”.
Lợi gian hai chữ dấy loàn,
Nhà buôn nhà bán mắc nàn đã ưng.
Thấy vầy nên dửng dừng dưng,
Ở đừng vô đạo cũng đừng vô luân. (1760)
Đã lâm vào tội bất nhân,
Dầu cho muôn kiếp cái thân ra gì?
Tạo Y cầm cái thẻ đi,
Qua rồi cửa quỉ kịp khi đến thành.
Bài đề rằng “Uổng Tử Thành”,
Ở trong rực rỡ cung đình nghiêm trang.
Đền son gác tía lầu vàng,
Hẳn hòi đề chốn Diêm quan trị vì.
CÁc nơi chúa ngục âm trì,
Đến nơi chầu chực án từ phán ra. (1770)
Tội nào nghi lại cho tra,
Tội nào đoán quyết cho ra hành hình.
Biết bao nhiêu phạm tội tình,
Thác oan uổng tử vong linh dật dờ.
Hồn thời mượn chúng đại thơ,
Hồn thời đội trạng đội tờ giấy không.
Đàn bà cho tới đàn ông,
Đem nhau quì trước sân rồng thiếu chi.
Trâu dê heo chó đều đi,
Mồm thời cắn trạng vào quì Diêm quan. (1780)
Mới hay vật cũng chịu oan,
Thác không đáng thác, xương tan thịt lìa.
Hai người quỉ sứ đứng kề,
Kẻ thâu đơn trạng người thì kêu rao.
Hai người chưa rõ lẽ nào,
Đem nhau tới chốn Án tào coi chơi.
Thấy quân quỉ sứ ba người,
Dẫn tới một người chưa biết tội chi.
Ở đời làm nghiệp thế y,
Chú ruột Châu Kỳ, tên gọi Châu Phan. (1790)
Họ Hà nhìn thấy rõ ràng,
Hỏi rằng: Sao chú lầm đàng nơi đây?
Đáp rằng: Mang tội làm thầy,
Hốt lầm thang thuốc hại lây mạng người.
Đạo ta đây có ba người,
Hãy còn ở cửa thứ mười xin ăn.
Một người tên gọi Hà Năng,
Thật ngươi Hà Mậu kêu bằng ngôi ông.
Châu Phan lời nói chưa xong,
Quỉ đà kéo cổ vào trong Án tào. (1800)
Lại nghe quỉ sứ lao xao,
Dẫn một người nào đầu trọc mang gông.
Dương Từ xem thấy nghi lòng,
Lại gần vốn thật thầy trong chùa mình.
Hỏi rằng: Hòa thượng tu hành,
Có sao mà mắc tội tình chi đây?
Đáp rằng: Từ thuở chơi mây,
Am vân hôm sớm hằng vầy kệ kinh.
Chẳng may lâm bịnh xá sanh,
Chưa hay buổi ấy âm linh tội gì! (1810)
Nói rồi quỉ sứ dẫn đi,
Vào Án tào ấy một khi tra tường.
Án tào quỉ sứ phụng chương,
Đặng dâng bệ ngọc Diêm vương ngự rằng:
Châu Phan là đứa vô ân,
Đành lòng chẳng tưởng mồ phần tổ tiên.
(Bị lược bỏ do kiểm duyệt)
Hiềm vì nghề nghiệp y môn,
Chẳng coi sách vở làm khôn hại người.
Phó cho cầm cửa thứ mười,
Dẫn đi hành tội cho người thấy ghê. (1820)
(Bị lược bỏ do kiểm duyệt)
Dạ Xoa vâng lịnh phăng phăng,
Ngục mười dẫn lại giao thằng Châu Phan.
Diêm vương phán trước ngai vàng,
Rằng: Ngươi Trần Kỷ sao chàng đi tu?
Tiếng xưa cũng biết chữ nhu,
Há không coi sách Xuân Thu dạy đời?
Ngoại di Trung Quốc khác trời,
Phụ Nho theo Phật chuộng lời nam mô.
Mấy năm ờ chốn Phù đồ,
Xưng rằng Hòa thượng nói phô hoang đàng. (1830)
Của thời tam bảo ăn thường,
Ruộng thời sẵn có thập phương cúng dường.
Vả xưa Phật ở Tây phương,
Sống không biết lẽ cang thường là chi.
Luyện lòng hai chữ “từ bi”,
Việc nhà việc nước biết gì tới ai.
Làm người sao chẳng theo loài?
Thảo cha ngay chúa đoái hoài chi đâu!
Đành lòng cắt hết tóc râu,
Đã toan bất tử lại âu bất thần. (1840)
Tội kia đã đến muôn phần,
Khó dung cho đó làm thân con người.
Trước cho bầy rắn ăn tươi,
Rồi sau cho hóa kiếp người làm trâu.
Hành cho chín kiếp rất lâu,
Để ăn rơm cỏ dãi dầu tấm thân.
Dạ Xoa lãnh nạp họ Trần,
Đem giao chúa ngục ở phần sông Diêm.
Có quân quỉ tốt liền đam,
Dẫn qua Tào án còn giam nửa giờ. (1850)
Dương Từ theo khóc bơ vơ,
Rằng: Nay hòa thường biết nhờ cậy ai!
Kỷ rằng: Ta hỏi Thiện Trai:
Cớ sao xuống chốn âm đài chuyện chi?
Thưa rằng: Tầm dấu Mu-ni,
Ngỏ xin khỏi tiếng thị phi trên đời.
Kỷ rằng trốn lánh việc đời,
Đã đành lỗi đạo cùng trời đất kia.
Ngàn năm trong cõi thiền kia,
Lấy ta làm một tấm bia để đời. (1860)
Ngươi về xin gởi vài lời,
Nói cùng tăng sãi các nơi chùa chiền.
Trở về theo đạo thánh hiền,
Lo bề nhà cửa chớ nguyền đi tu.
Tu chi mắc kiếp làm trâu,
Lại xô xuống cầu cho rắn phân thây.
(Bị lược bỏ do kiểm duyệt)
Đương phô quỉ sứ đánh ngang,
Dẫn tới ngục đàng chịu phép khảo tra.
Châu Phan sùi sụt bước ra,
Họ Hà thấy vậy xót xa phận mình. (1870)
Tạo Y quỉ sứ có tình,
Đem qua các chốn ngục hình xem coi.