Phút đâu đi tới bến đò,
Bến đò đưa rước chẳng lo tốn tiền.
Bài đề hai chữ “Hoàng Tuyền”,
Người qua kẻ lại liền liền ngày đêm.
Người kêu “Chín suối Cẩm Diêm”,
Chín kia số hết suối thêm đó đầy. (1540)
Qua vừa khỏi bến đò nầy,
Thấy bầy chó dữ ngăn rày đường đi.
Xa xem vằn vện đen sì,
Hằm hằm đứng sủa dị kỳ rất hung.
Bên đường có thẻ bài phong,
Chữ cấm ba vòng rằng Ác Cẩu Thôn.
Có quân Quỉ Tốt đương môn,
Người đi qua lại ỷ khôn dám kề.
Tạo Y đưa cái thẻ đề,
Đem nhau tới đặng một bề đi xuôi. (1550)
Vừa đi vừa ghé mắt coi,
Thấy quân Quỉ Tốt giơ roi đánh người.
Dẫn ra một lũ vài mươi,
Kêu là thầy pháp dối người thế gian.
Người đau chẳng dụng thuốc thang,
Lòng tham tiền bạc bày đàn chữa chuyên.
Khoe khoan nhiều phép linh thiêng,
Phỉnh treo trang khoáng ăn tiền đức ngu.
Bày điều đóng ấn vẽ phù,
Láo sai binh tướng bắt tù Diêm Vương. (1560)
Nhà dân cúng đất lệ thường,
Dám kêu tên Đế ngũ phương ngán ngầm.
Làm cho người mắc lỗi lầm,
Ấy là loạn đạo tội dầm ngày sau.
Để bầy chó dữ đua nhau,
Xé thây lũ ấy nhai đầu ăn gan.
Hai người coi thấy liền than,
Đi qua khỏi cửa hỏi chàng Tạo Y.
Hỏi rằng: Thầy pháp tội chi?
Cho bầy chó dữ một khi hành hình. (1570)
Đáp rằng: Thầy pháp nó khinh,
Dối trong trời đất chư linh chẳng vì.
Đời xưa phép luật ai bì,
Trừ ma ếm quỉ việc gì cũng hay.
Lão quân mất sách đến nay,
Đời sau bắt chước liền bày phép xiên.
Nói rồi vội vã đi liền,
Khỏi nơi Ác Cẩu gần miền Đao San.
Đao San địa phủ chữ vàng,
Bài dựng bên đàng ai thấy cũng kinh. (1580)
Núi non d91 mọc như binh,
Bày ra sắc lẻm như hình phủ đao.
Có quân quỉ tốt lao xao,
Đón đường tra hỏi ai nào dám qua.
Tạo Y đưa cái thẻ ra,
Đi qua cửa khác liếc mà xem coi.
Thấy quân quỉ tốt cầm roi,
Dẫn thầy địa lý hỏi đòi chứng tra.
Tra rồi dẫn các thầy ra,
Kể bao nhiêu tội cho va nghe cùng. (1590)
Nhà ai rủi mắc tang hung,
Phỉnh đi coi đất đặng mong ăn tiền.
Khoa khoan rằng học phép tiên,
Tầm long điểm huyệt chôn liền giàu sang.
Ai mà chẳng dụng địa bàn,
Chôn nhằm cuộc xấu ắt mang tai trời.
Lấy câu phú quí dắt người,
Bày nơi ngũ quỉ chỉ nơi lục thần.
Khiến cho thói chuộng lăng nhăng.
Coi thân cha mẹ rẻ bằng cỏ tranh. (1600)
Người thời ham chữ công danh,
Thác không mai táng để dành thầy toan.
Người thầy ham việc giàu sang,
Nghe theo thầy tục để quàn lâu năm.
Nghĩ điều hoặc thế mà câm,
Tội kia đã đáng thây dầm Đao San.
Dạ Xoa đứng dưới Đao San,
Bắt thầy địa lý quăng ngang trên hình.
Hai người coi thấy thất kinh,
Quăng lên lăn xuống thân hình còn chi? (1610)
Hai người mắt thấy ai bi,
Mang lời đều hòi Tạo Y vội vàng:
Chẳng hay phong thủy mấy chàng,
Tôi chi phải mắc Đao San hành hình?
Đáp rằng: Trong số tử sanh,
Là trời dành để ai dành đặng đâu.
Từ xưa vua Vũ làm đầu,
Phép bày địa lý để âu trị đời.
Đến sau phong thủy các nơi,
Học đòi coi quẻ đua bơi tài nghề. (1620)
Bày ra làm sách không xuê,
Ngũ phương định hướng làm bề vọng khi.
Đua nhau cải số trời đi,
Khiến người tai nạn gian nguy một dòng.