Thương thay hai gã gian nan,
Chín trời đã khắp phải toan lẽ gì?
( Lược bỏ do kiểm duyệt)
Phút đâu trên chốn tây lầu,
Nổ ba tiếng sấm nhóm chầu các cung.
Áo xiem đai mão lạnh lùng!
Tinh quân các vị rùng rùng tới nơi.
Hai người đứng nép coi chơi,
Những người chầu chực nhà trời là ai?
Thấy đi có tấm thẻ bài,
Đề rằng “Khổng Tử Đại Tài Thánh Vương”. (1380)
Ngồi trong kiện ngọc tàn vàng,
Một ông Khổng Tử dung nhan tốt lành.
Theo sau biết mấy thần linh,
Coi trong thẻ bạc đề danh Đại Hiền.
Dương Từ coi thẻ khen liền:
Hèn chi vua chúa chính chuyên miễu thờ.
Cho hay muôn nước đều nhờ,
Đạo ông Khổng Tử làm bờ chăn dân.
Trong đời biết chữ nhân luân,
Biết đường trị loạn muôn phần nhờ ai? (1390)
Nhờ câu “kế vãng khai lai”,
Thật ông Khổng Tử đại tài thánh vương.
Đâu đâu cũng kính cũng nhường,
Môn đồ cũng đặng hiển dương muôn đời.
Như vầy mới gọi đạo trời,
Trời sanh đức thánh thay lời dạy dân.
Dương Từ vừa dứt tiếng phân,
Phút đâu lại thấy vị thần đi sau.
Một người cỡi ngựa tốt râu,
Đến gần nhìn thật Quan Hầu thuở xưa. (1400)
Vội vàng quì lạy liền thưa:
Mừng nay gặp Phật, khác xưa cõi phàm.
Nam mô hai chữ già lam,
Xin thương bần sãi ở am chầy ngày!
Quan Hầu cỡi ngựa đi ngay,
Châu Thương đứng lại tỏ bày căn duyên.
Hỏi rằng: Người ở cửa thiền,
Việc chi tới chốn Huyền Thiên làm gì?
Từ rằng: Ông vội quên đi,
Am mây bần sãi tu trì nhiều công. (1410)
Nhang đèn liền đốt bàn ông,
Nay làm ra Phật sao không đoái hoài?
Châu Thương nổi sặc cười dài,
Nói rằng: Thần, Phật khác loài nhau xa.
Quan Hầu vốn thật chúa ta,
Tấm lòng trung chánh ai mà dám đương!
Tiếng khen muôn nước đều nhường,
Trời phong làm chức Thành Hoàng Đại Vương.
Từ rằng: Ông thật Thành Hoàng,
Ở trong chùa ấy thờ ông Quan nào? (1420)
Đáp rằng: Vì thuở Hán trào,
Có ông Phổ Tịnh kết giao đồng làng.
Chúa ta hiển thánh ngọc hoàng,
Hòa thượng lòng nhớ thờ than bạn lành.
Già lam hai chữ thơm danh,
Mới đặt bài vị tụng kinh siêu hồn.
Khiến nên thiên hạ tiếng đồn,
Vẽ hình tượng cốt nhiều môn phù đồ.
Chúa ta chẳng phải đi tu,
Trong mình giữ vẹn tóc râu tốt lành. (1430)
Nói cho sãi rõ sự tình,
Nhắm coi Thần Phật hai hình khác nhau.
Than rằng: Sự dĩ đáo đầu,
Biết khôn thôi đã tóc râu hết rồi!
Xiết bao chịu nỗi khúc nôi,
Đến nay mới biết lầm ôi là lầm!
Nhớ lời đạo sĩ Tây Lâm,
Chua le trong dạ hổ thầm với va.
Chín trời nay khắp trải qua,
Giờ về đã tới từ ra trở về. (1440)
Hoàng cân Lực sĩ đề huề,
Dương Từ Hà Mậu ra về chưa xa.
Ra về khỏi bến Ngân hà,
Gặp ông Thái Ất tuần tra đón đường.
Lăm le bắt trói hai chàng,
Tuốt gươm linh kiếm phòng toan chém đầu.
Hoàng cân Lực sĩ quì tâu,
Tín bài có chữ xin cầu khoan dung.
Thái Át coi tín bài xong,
Cười rằng: Lũ dại khéo mong lên trời. (1450)
Trời đâu cho sãi lên chơi,
Cho quân tả đạo tới nơi dòm hành!
Lão Nhan là vị tiên linh,
Há không rõ đặng sự tình Phong Đô?
Phong Đô cõi ấy ra vô,
Nhóm nhau những đạo tăng đồ thiếu ai.
Tha bây về động Thiên Thai,
Thưa cùng Tứ Thất vẽ bày Phong Đô.
Bày rồi hai chữ Phong Đô,
Kíp đi chẳng khứng nói phô rõ ràng. (1460)
Hoàng cân Lực sĩ vội vàng,
Kíp đem hai họ về đàng Đài Dương.