Xảy nghe bên cụm cây xanh,
Có người đốn củi lanh chanh hát rằng: (760)
Hát rằng:
Núi non đây nhiều cây nghinh ngáng,
Dọn trống đường nhờ cán búa ta.
Búa trong tay liền ngày đốn củi,
Vui rừng trời tránh buổi loạn ly.
Cội cây yêm phải tìm núp bóng,
Mặc người đời dù lọng nghinh ngang.
Dương Từ nghe hát mấy lời,
Xăm xăm bước tới thấy người tiều phu.
Hỏi rằng: Nhà cửa ở đâu?
Biết trong miễu ấy công hầu bậc chi? (770)
Tiều rằng: Trong miễu Hiếu Từ,
Thờ ông Mẫn Tử thuở kỳ Xuân Thu.
Học thro đạo thánh ngày lâu,
Hiếu từ đức hạnh ở đầu tứ khoa.
Hết lòng thảo với mẹ cha,
Người ngoài cho đến trong nhà đều khen.
Thuở xưa đương lúc khó hèn,
Ấu thơ mẹ mất cha bèn thú thê.
Từ ngày có mẹ ghẻ về,
Đẻ hai con nhỏ cha kề ấp yêu. (780)
Mẹ thương con ruột phần nhiều,
Tấm thân con ghẻ bỏ liều như không.
Đói no lành rách mặc lòng,
Ăn theo đày tớ nằm cùng chăn trâu,
Tử Khiên không dạ oán sầu,
Phải sao hay vậy trọn câu hiếu hòa.
Gặp khi cha khiến dẫy xa,
Thấy con áo rách giận bà hậu thê.
Cha bèn vội vã trở về,
Trách mà mẹ ghẻ toan bề để ra. (790)
Tử Khiên than khóc lạy cha.
Xin dung một mẹ mới hòa ba con.
Rách lành chẳng sá một con,
Hai con thơ ấu mẹ còn mới nên.
Thảo thân một tấm lòng bền,
Cảm tình mẹ ghẻ chẳng quên con chồng.
Nhớ câu :hiếu để thành phong”,
Người trong nước Lỗ đều mong học đói.
Sắc phong một thuở hẳn hòi,
“Hiếu Từ” hai chữ dấu roi để đời. (800)
Ta đây một họ cùng người,
Kêu bằng ông tổ ba mươi bốn đời.
Từ rằng: Xin hỏi vài lời,
Người là vốn thật dòng người trâm anh.
Sao không ra lập công danh,
Nói theo nghiệp tổ hiển vinh mà nhờ?
Tiều rằng: Trước mặt sờ sờ,
Xưa qua nay lại dễ chờ đợi chi?
Đưa theo hai chữ “tương khi”,
Trên quyền dưới lợi đoái gì thiên luân! (810)
Nước thời chia bốn năm phần,
Can qua chẳng biết mấy lần đánh nhau.
Trong thời gian nịnh giụm đầu,
Ngoài thời dua mị đua cầu tham quan.
Chánh ra dữ quá cọp vàng,
Lòng dùng độc quá hổ mang thuồng luồng.
Bốn phương mọi rợ luông tuồng,
Nay giành ải hổ mai ruồng ải lang.
Nơi nơi trộm cướp dấy loàn,
Lê dân hết sức của tan chẳng còn! (820)
Cõi trong trời đất thon von,
Khói mây đen nghẹt nước non đau sầu.
Biết đời Tam Đại là đâu,
Gặp khi thúc quí phải âu lánh mình.
Từ rằng: Bờ cõi thinh thinh,
Chẳng tham danh lợi lánh mình chớ lo.
Ở trong tạo hóa một lò,
Thiếu chi nghề nghiệp bo bo theo tiều?
Tiều rằng: Cửa thánh gương treo?
Dùng đời chẳng đặng thời theo đời dùng. (830)
Nghề như các bực Thiên Công,
Nghiệp như y lý cũng không ra gì.
Bao nhiêu nghề nghiệp đều khi,
Chẳng khi nào khéo, lấy chi đời dùng?
Khéo khôn ắt có mỏi lòng,
Mỏi lòng rồi lại mắc vòng họa tai.
Thử coi con thú vật ngoài,
Như voi như cọp mấy ai dám bì?
Voi kia cao lớn đen sì,
Cặp ngà vô dụng can chi lụy mình? (840)
Cọp kia nanh vút như binh,
Tấm da vô dụng ai rình đâm chi?
Lấy trong việc ấy mà suy,
Những nghề đời dụng ra gì xưa nay!
Ta nhờ cán búa trong tay,
Theo nơi rừng bụi tháng ngày thảnh thơi.
Bữa dùng một gánh củi trời,
Cá cơm rượu thịt tháng ngày cũng no.
Giữa câu “phủ ngưỡng” bo bo,
Kỉnh thờ trên dưới miễn cho xong mình. (850)
Xin đừng hổ với thần linh,
Cùng người đừng thẹn uổng sanh trong đời.
Xin đừng khi đối lẽ trời,
Cũng đừng trốn lánh việc đời thời xong.
Dương Từ nghe nói hổ lòng,
Khen rằng: Lão trượng thật dòng hiền xưa.
Ta đà lánh cõi mây mưa,
Có trêu tấc dạ lại ưa mùi thiền.
Thiên thai dốc kiếm chùa tiên,
Chưa thông đường sá dám phiền chi ta. (860)
Tiều rằng: Có chỉ nam xa,
Chớ lo đạo lỗi lo ta lầm đàng,
Đây đi xuống bến Châu Giang,
Ngang qua sông ấy lên đàng Thiên Thai.