Ngày xuân con én trì trì,
Tưởng câu “thủy tú sơn kỳ” thêm vui.
Khói tan ngút sạch như giồi,
Miệng hang khe đá nặc mùi chi lan.
Rỡ ràng chín chục thiều quan,
Gió thanh mây lặng vẻn vang một trời. (590)
Mảng coi phong cảnh nơi nơi,
Ác vàng chen núi khó dời đường chim.
Trong non nhà cửa khôn tìm,
Dương Từ vào miễu một đêm nắm nhờ.
Miếu môn vắng vẻ như tờ,
Tối tăm chẳng biết trong thờ thần chi.
Họ Dương vừa giấc ngủ đi,
Chiêm bao lại thấy quân tùy bắt ngang.
Quân rằng: Vâng lịnh Phán quan,
Chữ đề trong thẻ đòi chàng hỏi tra. (600)
Họ Dường hồn gượng theo ra,
Vào nơi công phủ một tòa nghiêm trang.
Ngồi trên thấy một ông quan,
Trước bàn hương án bày hàng bút nghiên.
Có người thơ lại ngồi biên,
Hai bên treo trống treo chiêng rõ ràng.
Trước sân lỗ bộ hai hàng,
Tả ban hữu vệ đứng giàn hầu xa.
Quân bèn dẫn họ Dương ra,
Trước sân cẩm thạch quì mà nghe tra. (610)
Quan rằng: Thằng sãi bôn ba,
Tối nằm cửa miễu vậy mà hỏi ai?
Dám xưng rằng hiệu Thiện Trai,
Người trong Hoa Hạ hay ngoài man di?
Tóc râu là dạng nam nhi,
Của cha mẹ đúc can gì cạo đi?
Tổ tiên chút đã đền chi,
Vùa hương bát nước nào khi phụng thờ?
Áo cơm còn nợ sờ sờ,
Lá rau con cá ở nhờ đất vua. (620)
Trốn xâu trốn thuế vô chùa,
Trong đời những sãi thời vua nhờ gì?
Vợ chồng sao bỏ nhau đi?
Lời nguyền dường ấy dám khi quỉ thần!
Ba giềng chẳng đặng một phần,
Như vầy cũng tiếng là thân con người.
Để bây sống cũng nhơ đời,
Truyền quân đao phủ dẫn nơi pháp đình.
Họ Dương khiếp vía hồn kinh,
Lạy xin khoan thứ chút tình bần tăng. (630)
Phán quan cất bút phê rằng:
Tha về khá giữ đạo hằng cổ kim.
Dường Từ thức dậy nửa đêm,
Nghĩ thôi mới biết một điềm chiêm bao.
Gẫm trong cớ sự ngán ngao,
Cát hung chưa rõ lẽ nào thân sau.
Vầng ô vừa lố khỏi đầu,
Dương Từ vào miễu thấy câu chữ đề.
Ngó lên trên biển ngạch đề,
Rằng: Đường Hàn tử Xương Lê chi thần. (640)
Than rằng: Đã hiển thành thần,
Ngay vua nào mại tấm thân mất còn.
Lại xem đôi liễn sơn son,
Hai câu tương đối treo còn tới nay.
Liễn rằng:
Một sách “Đạo Nguyên” lòa mắt thánh:
Ba tờ “Phật Biểu” chát tai vua.
Dương Từ than thở khen hay,
Người ngay lại có liễn ngay để đời.
Lòng son một tấm thấy trời,
Những đoàn gian nịnh đổi đời sao xong. (650)
Cho hay người đặng chữ trung.
Dầu sau muôn kiếp sắc phong miễu thờ.
Vái rằng: Bần sãi ngẩn ngơ,
Lỡ đàng nên mới tạm vơ miễu thần.
Tạ ơn bốn lại kính dâng,
Chấp chi bần sãi, lạc chừng vân du.
Từ nay khỏi cửa công hầu,
Chim trời cá nước mặc dầu ngưỡng chiêm.
Đi rồi nghĩ lại giận thêm,
Rằng đêm trong miễu thấy điềm chiêm bao. (660)
Ghi lòng vàng đá chớ nao,
Những điều mộng huyễn nghĩ nào mà tin.
Đi hơn mười dặm đứng nhìn,
D(ường về Tây Bắc cảnh in quê nhà.
Nghĩ mình từ thuở xuất gia,
Tới nay kể đã đặng ba năm trường,
Người thời chê lỗi cương thường,
Thần thời bắt tội lỗi đường hiếu trung.
Biết tu mấy kiếp cho xong!
Làm người rất thẹn đứng trong cõi người! (670)
Tu chi trời đất hổ ngươi,
Thần hờn quỉ giận sĩ cười dân chê.
Tưởng đi rồi lại tưởng về,
Về thời lại hổ bồ đề trong tay.
Tương dưa rau muối cơm chay,
Công phu uổng phí xưa nay cúng dường.
Đi thời lại sợ lầm đường,
Thế gian đàm tiếu mọi đường thị phi.
Dùng dằng lỡ ở lỡ đi,
Bàn lui bàn tới lẽ gì chưa xong. (680)