Phần 05: Câu 355 – 526

Họ Hà chuyện vãn còn dài,

Để nối đầu bài, nói chuyện họ Dương.

Từ chàng cách biệt gia hương,

Đã ba năm trường ở chốn am mây.

Hôm mai chuông mõ vang dầy,

Chúng tăng đều gọi có thầy Thiện Trai. (360)

Bao nhiêu thế tục gác ngoài,

Một xâu chuỗi hạt mang vai gìn lòng.

Quì hương ba thứ đã xong,

Mười lời giới cấm, cũng không phạm gì.

Ban sơ làm phận tu trì,

Năm nay lên chức thái sư một chùa.

Vô ra trong cõi Phù Đồ,

Thấy người tài sắc: Nam mô Di Đà!

Ngày ngày kinh kệ ngâm nga,

Lăng Nghiêm, Viên Giác, cùng là Kim Cang. (370)

Phút lòng buồn bực chẳng an,

Dạo chơi ra chốn tam quan một hồi.

Am vân cảnh vắng nào vui,

Coi bao nhiêu lại ngậm ngùi bấy nhiêu.

Vội vàng trở lại hậu liêu,

Bạch cùng Hòa thượng xin điều vân du.

Hòa thượng cũng người học nhu,

Tân là Trần Kỷ, ở Phù Đồ Sa.

Lắm phen ứng cử đăng khoa,

Thi văn chẳng đỗ, lòn ra cửa thiền. (380)

Giận đời nhiều việc đảo điên,

Làm thi khuyến thế, ngày liền ngâm chơi.

Thi rằng:

Người xưa cầm đuốc dạo đêm chơi,

Nào có cưu chi cái việc đời,

Phụng Thuấn, lân Nghiêu tuồng trước nát,

Huơu Tần, rắn Hán thói sau dời.

Thánh hiền để dấu vài pho sách,

Tạo hóa theo mình mấy tấc hơi?

Trong cuộc phù sanh ai cũng thế,

Dầu hay dầu dở chẳng qua trời. (390)

Họ Dương sắm sửa hành trang,

Lạy thầy Hòa thượng lên đàng vân du.

Kìa non, nọ nước mặc dầu,

Non nhân, nước trí nhiệm mầu thảnh thơi.

Người sanh ra ở trong trời,

Xưa qua, nay lại nghĩ đời luận sau.

Trong vòng danh lợi như nhau,

Hết vinh đến nhục sang giàu chi ai?

Có câu “xuân bất tái lai”,

Bóng già theo gót, biết nài chi đây. (400)

Đã đành thiền trượng một cây,

Giới đao một lưỡi từ rày thế gian.

Xưa nay trong cuộc gian nan,

Vật đều có chủ ai toan chia giành?

Kìa kìa gió mát trăng thanh,

Tai nghe mắt thấy mới đành của ta.

Nguồn đào cụm liễu trải qua,

Tin xuân đưa bướm ong hoa dầy dầy.

Đi vừa xa chốn am mây,

Tới nơi Hà Lãnh trời tây hầu chiều. (410)

Ven ghành môt nhắm hắt hiu,

Tiếng ngư trong núi, bóng tiều ngoài khơi.

Bên non hầu khuất mặt trời,

Dương Từ thơ thẩn tìm nơi gởi mình.

May đâu gặp một tiểu sanh,

Cho trâu uống nước dưới gành Hà Tây.

Ngồi cầm ống quyển trong tay,

Thổi rồi lại hát, hát hay lại cười.

Dương Từ bước tới xem chơi,

Gẫm ba câu hát thật lời thạch kim. (420)

Hát rằng:

Buổi trời Nghiêu, bóng chiều ngao ngán,

Ngày tối rồi chờ sáng cũng lâu.

Tiếng chim oanh đổ canh mái bắc,

Ai đi đồng kéo tắt trời tây.

Cõi nhân gian nhiều đàng lầm lỗi,

Gặp trời chiều khó nỗi đi xa.

Hát rồi lại thổi ống chơi,

Gẫm trong thú vị, thảnh thơi hơn thiền.

Dương Từ bước tới hỏi liền:

Ba câu hát ấy ai truyền cho ngươi? (430)

Tiểu sanh nghe hỏi nực cười,

Đáp rằng: Vốn thật có người dạy ta.

Gần đây vài dặm chẳng xa,

Có thầy đạo sĩ tu đà nhiều năm.

Lập am ở chốn Tây Lâm,

Tháng ngày thong thả đờn cầm ca thi.

Thuốc thang phù chú ai bì,

Người đau tới đó, bịnh chi cũng lành.

Dương Từ nghe nói đành rành,

Xăm xăm bước tới đầu gành Tây Lâm. (440)

Đến nơi trời đã tối dầm,

Đứng xa ngoài cửa nghe ngâm thi rằng:

Thi rằng:

Biết ân phụ tử nghĩa quân thần,

Nhờ có Trời sanh đức Thánh nhân.

Nét mực tu kinh ngăn đức loạn,

Dấu xe hành đạo rạch trong trần.

Trăm đời còn cám lời than phụng,

Muôn thuở đều thương tiếng khóc lân.

Phải đặng bút Châu biên sách Hán,

Mọi nào dám tới cạo đầu dân! (450)

Thơ rồi lại khảy đờn cầm,

Như tuồng mừng bạn tri âm tới nhà.

Tử Kỳ xưa gặp Bá Nha,

Ngón đờn lưu thủy nay mà còn đây.

Dương Từ gõ cửa kêu thầy,

Rằng: Ta lỡ tối xin thầy độ ta.

Đạo nhân nghe gọi bước ra,

Chào rằng: Thiền khách đâu mà đến đây?

Lều tranh giường đá chiếu mây,

Khô nai cơm bắp rượu chay tạm dùng! (460)

Từ rằng: Lời dám hỏi ông:

Ở trong am tự sao không Phật thờ?

Sĩ rằng: Lòng chẳng ước mơ,

Bởi vì chữ Phật sánh vừa chữ nhân.

Đường qua Tây vực chẳng gần,

Cõi Di, cõi Hạ trời phân rõ ràng.

Ta từng coi sách nhà Đàng,

Thấy lời Phật biểu họ Hàn hết tin.

Phật nhân sống cũng chẳng nhìn,

Huống chi hình vẽ tượng in thờ gì? (470)

Từ rằng: Phật vốn từ bi! …

Sĩ rằng: Nào có ích gì dân phong.

(Bị cắt bỏ do kiểm duyệt, tôi sẽ bổ sung sau).

Từ rằng: Thầy học đạo chi?

Sĩ rằng: Thiên hạ thiếu gì đàng xưa.

Lẽ đời như chiếc thuyền đưa,

Mặc ai đi sớm đi trưa chẳng màng!

Kìa là họ Lão, họ Trang,

Họ Dương, họ Mặc, họ Hàn, họ Thân.

Các nhà xưa cũng cổ nhân,

Khai đường mở ngõ trong trần nhiều nơi. (480)

Có nghe các họ đua bơi,

Không nghe họ Phật ở đời Trung Nguyên.

Từ rằng: Biết đạo nào chuyên?

Sĩ rằng: Xưa có sách hiền soạn câu:

Một bầu trời đất như châu,

Mặt người kim cổ, chèo đâu thì chèo.

Từ tằng: Khó biết phương theo,

Sĩ rằng: Lựa phải xuống đèo lên non.

Vua tôi, chồng vợ, cha con,

Anh em bậu bạn, vuông tròn mới xong. (490)

Chẳng tin coi một ngày ròng:

Đi đâu cho khỏi đạo trong cang thường?

Ta xưa cũng khách thơ đường,

Mày xanh có chí hiển dương trên đời.

Ghét đời thúc quí đua bơi,

Sợ trời nên phải tìm nơi ẩn mình.

Vốn không học thói Lan Đình,

Xúm nhau thầm thĩ phẩm bình cổ câm.

Cũng không học thói Trúc Lâm,

Rủ nhau uống rượu hôn trầm ngày đêm. (500)

Gió trăng bậu bạn anh em,

Sớm nghe tiếng dế, tối xem bóng thiềm.

Mộ riêng một cảnh thanh điềm,

Sẵn hoa dưới hố, sẵn chim trên cành.

Huo7u nai khỉ dộc đua tranh,

Vật trong trời đất mặc tình xem chơi.

An nguy  có phận ở trời,

Người đời đừng mắc nhơ đời thì thôi.

Dương Từ nghe nói rẽ ròi,

Một đêm chẳng ngủ luốn ngồi lo âu. (510)

Nghĩ rằng mình đã đi tu,

Hẵn như lời ấy: công phu lỡ làng!

Cương thường để mặt ai toan,

Đạo, ta giữ vẹn, nào can phạm gì?

Xảy vừa trời sáng hầu đi,

Hỏi rằng: Húy tự tân gì dạy tôi?

Sị rằng: Trọn đạo thời thôi,

Người đời lựa phải trau dồi tánh danh?

Trời cao đất rộng thinh thinh,

Non xanh nước biếc đã đành phui phai. (520)

Hỏi thời ta phải nói ra:

Ba ngàn thế giới, ta là vô danh.

Từ rằng: Đâu thật có danh?

Sĩ rằng: Linh diệu đã đành chùa tiên.

Dương Từ vội vã đi liền,

Ngồi lâu lại sợ cửa thiền mắc chê. (526)

Viết một bình luận

error: Content is protected !!