Về tác giả Gia Định thất thủ vịnh

Tác giả: Tôn Châu Quân

Nguồn: Thư viện Tổng Hợp Tp. HCM, Việt Nam


Tháng 2 năm 1862, Pháp kéo quân tấn công vào đại đồn Chí Hòa. Sau hai ngày kịch chiến, đồn thất thủ, quân Pháp chiếm được toàn bộ thành Gia Định. Để đánh dấu sự kiện lịch sử này, thời gian đó đã xuất hiện một bài vịnh có tựa là Gia Định thất thủ vịnh.

Năm 1882, Trương Vĩnh Ký (1837-1898) đã chép lại, ghi chú bài vịnh đó và ghi là “Khuyết danh”. Trong lời tựa ông đã viết:

“Vịnh này ai làm ra thì không biết rõ, mà văn làm hay, đối đáp cân xứng. Xem hãy còn dài hơn nữa, mà thấy các bổn chép có bấy nhiêu, thì ta cũng chép lại có bấy nhiêu. Bấy nhiêu cũng hiểu đủ ý tứ và chí khí kẻ làm, chính ý là tiếc đất cũ của mình nay đã về tay giặc, đổ cho đạo tuần hườn trời đất đổi dời khiến cho giặc mạnh, khí giới giỏi, cơ xảo đến đánh mà lấy đi”.


Xin được chép lại nguyên văn bài vịnh trên và ghi chú của Trương Vĩnh Ký:

  1. Thương thay đất Gia Định! Tiếc thay đất Gia Định!

Vực thẳm nên cồn, đất bằng nổi sóng. (1)

  1. Tàu khói chạy mây tuôn sông mấy khúc, lờ lạt Bến Trâu,

Dây thép giăng chớp nháng đất ngàn trùng, ngã xiêu thành Phụng.

  1. Bờ cõi phân chia khác mắt, trông ra như quáng như mù,

Giang sơn dời đổi lạ mày, tưởng tới dường mê dường tỉnh. (2)

  1. Lớp cũ tàn, lớp mới mọc, ngổn ngang xe ngựa đất gò bằng,

Dấu trước lắp, dấu sau bồi, tan nát cửa nhà trời dậy sấm. (3)

  1. Ấm á súng rền kinh cửa bắc, hãi hùng trăm hô dứt câu ca,

Tò le kèn thổi tối trời nam, man mác năm canh không tiếng trống. (4)

  1. Hào kiệt tìm phương lánh mặt, sa cơ gió hạc lúc hư kinh, (5)

Anh hùng kiếm chốn ẩn thân, sút thế nước cờ cơn lúng túng.

  1. Từ Bến Thành trải qua chợ Sỏi, loài tanh hôi lang lệ biết bao nhiêu, (6)

Nơi Chợ Lớn sắp tới cầu Kho, quân mọi rợ lẫy lừng nên quá lắm.

  1. Cầu Thị Nghè cùng nơi Chợ Quán, Chúa Giê-su đắc ý vênh râu,

Chúa Cẩm Đệm trải đến Mai, phật Bồ Tát phải nghèo ôm bụng.

  1. Nơi nơi nổi xóm đạo nhà thờ,

Chốn chốn lập chùa thiêng miếu thánh.

  1. Dọc dọc ngang ngang mấy lớp, thảy đều chúng nó lâu đài,

Văn văn võ võ hai bên, nào thấy quan ta võng lọng.

  1. Ngậm ngùi thay ba bốn làng Gò Vấp, cây cỏ khô thân thể cũng khô,

Bát ngát nhẽ Mười tám thôn Vườn Trầu, hoa trái rụng, người đời cũng rụng.

  1. Mấy dặm Gò Đen, Rạch Kiến, ngọn lửa thiêu sự nghiệp sạch không,

Đòi nơi Rạch Lá, Gò Công, trân gió quét cửa nhà trống rỗng.

  1. Tiếng kêu oan, oan này vì nước, hồn nghĩa dân biết dựa vào đâu?

Thân liều thác, thác cũng vì vua, xương nghĩa sĩ chất đà đầy đống.

  1. Sông suối đào, mồ xiêu mả lạc, thương thay kẻ thác chẳng nên hồn,

Đường sá đắp, cửa hai nhà tan, cực bấy người còn không nổi sống.

  1. Sau trước vầy đàng tả đạo, dân ta đòi bữa đòi suy,

Đêm ngày ôi tiếng Lang Sa, thế nó càng ngày, càng lộng.

  1. Cờ Thành Thang sao không thấy phất, bỏ liều con đỏ chốn chông gai,

Áo Võ Vương sao chẳng thấy cài, nỡ để dân đen trong bùn lấm.

  1. Đầu Trung Nguyên tóc đặng còn dài, công này nhờ Chu Bá, học Xuân Thu xin chớ biếm Hoàn Công.

Tay bên tả áo kia khỏi mặc, việc ấy bởi ai, học Luận ngữ cớ sao chê Quản Trọng?

  1. Bóng xế dặm ngàn man mác, nước non này ai thấy chẳng buồn,

Trời chiều thuyền nhẹ lăng xăng, tình cảnh ấy lòng nào chẳng đông?

  1. Nay ta có cảm việc đời, vậy mới tả một bài ngậm vịnh:

Dẳng hỏi lầu Tây tiếng địch xoang,

Đoái trông thấp thoáng bóng dương tàn,

Giang san tám cõi êm tì báo,

Thế giới ba ngàn nổi sói lang.

Áy náy người lo ơn cúc dục,

Bâng khuâng kẻ tưởng nghĩa quân vương.

Ai về bến bắc thăm người Võ,

Hỏi cán cờ mao trải mấy sương?


Năm 1966, khi viết cuốn Giai thoại làng Nho, nhà văn Lãng Nhân (Phùng Tất Đắc) lại cho bài vịnh trên do Phan Văn Trị (1830-1910) sáng tác và có tên là Gia Định thất thủ phú. Trong lời giới thiệu, nhà văn viết:

“Khi quân Pháp gây hấn ở Gia Định (1862) ông (tức Phan Văn Trị – TTT chú) tránh xuống Vĩnh Long, gặp gỡ Nguyễn Đình Chiểu và Huỳnh Mẫn Đạt. Phẫn uất trước sự bạo tàn của quân giặc, ông làm bài viết Gia Định thất thủ phú …”

Đọc bản của Lãnh Nhân (LN) ta thấy câu chữ nhiều chỗ khác xa với bản của Trương Vĩnh Ký, và bản của Trương Vĩnh Ký thì “đủ hơn”’ ví dụ như nguyên cả câu 10 và cả phần cuối của bản Trương Vĩnh Ký thì ở bản LN lại không có.

Tác giả Lãng Nhân không ghi xuất xứ của bài “phú” trên, lại chép trong cuốn đề là Giai thoại làng Nho, vì thế có thể khẳng định rằng bài phú trên là của Phan Văn trị hay ai khác? Trong khi Trương Vĩnh Ký đã chép lại bài vịnh đó chỉ sau khi sự kiện trên xảy ra có hơn 20 năm (1862-1882) mà ông không biết tác giả là ai, chỉ ghi là khuyết danh!

Điều này rất mong các nhà văn học sử nghiên cứu thêm.


(1) Đổi dời đời biến loạn, nổi giặc Tây lên

(2) Chỉ đất Gia Định đã đổi dời khác quá, không còn nhìn được nữa. Mà nghĩ đất giang san cố cựu lại dường tỉnh dường mê.

(3) Cái cũ đã tàn đi, bây giờ ra lớp mới, xe ngựa dập dìu. Cửa nhà xưa phá tan hết, bây giờ nhà mới xây gạch đá, lầu hiện chập chùng.

(4) Súng Tây bắn rền đất, thiên hạ kinh hãi dậy tiếng âu ca, là đổi thanh ra loạn, thái bình ra giặc giã. Bây giờ nghe tiếng kèn Tây thổi tò tó te, đêm không nghe tiếng canh như xưa.

(5) Gió hạc lúc hư kinh: hạc nghe gió dậy thất kinh (phong thinh hạc lụy).

(6) Tinh chuyên hay tanh hôi cũng vậy.


Tài liệu tham khảo:

  1. Gia Định thất thủ vịnh; P.J.B Trương Vĩnh Ký chép ra chữ Quốc ngữ và dẫn giải, Sài Gòn, Bản in nhà hàng C. Guilland et Martion, 1882.
  2. Giai thoại làng Nho, Lãng Nhân, Nam Chí tùng thư, Sài Gòn, 1966 (Nxb. Văn Nghệ in lại năm 1992.)

Viết một bình luận

error: Content is protected !!