Trương Vĩnh Ký – Kim Gia Định Phong Cảnh Vịnh 1882

Kim Gia Định Phong Cảnh Vịnh

Trương Vĩnh Ký (chép ra chữ Quốc ngữ)

Bản in nhà hàng C. Guilland et Martinon, Saigon, 1882


Lời Trương Vĩnh Ký

Điệu vịnh nầy là của hai Dức ở Chợ Lớn, hiệu là Tập Phước (mới mất năm nay) là về địa cảnh đất Chợ Lớn, Bến Nghé đời bây giờ kể từ Phú Lang Sa lại cho tới nay, lập ra thể nào, khen khéo đặt để sửa sang cho ra cảnh tốt, cho nên thú vui.

Văn đặt thật tình, lời nói dễ hiểu, cũng nên in ra để đời cho người ta coi, cùng để lại cho người đời sau cho biết đời nay đất này là như vậy, hoặc sau sẽ ra tốt hơn nữa chăng? Dầu cuộc đổi dời cồn cỏ hóa nên vực, vực có hóa cồn đi nữa, thì cũng hãy còn tích lại mà nhắc.


Gia Định Phong Cảnh Quốc Âm Ca Vịnh

Công dư đương lúc thảnh thơi,

Nhìn trông phong cảnh đặt lời nôm na;

Dở dang việc trước kể ra,

Thấu tai những khách phương xa nghe cùng.

Đổi dời là máy hóa công,

Mở đường tang hải, kết vòng phiền hoa.

Vận trời năm thứ mười ba,

Việt Nam cùng Phú Lang Sa giao hòa.

Riêng chia sáu tỉnh sơn hà,

Địng Tường, Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long, (10)

An Giang tỉnh sấp vô trong,

Đến Hà Tiên cũng giáp vòng Cao Miên.

Bãi binh hai chữ chiếu vàng,

Sóng êm Bến Nghé, khói tan Đầm Rồng.

Hết ai xưng bá xưng hùng,

Tháp Mười đồn phá, Gò Công lũy bằng.

Lệnh trời một tiếng đã rằng:

Hoàng triều đóng ấn, đình thần kí tên.

Người giao người lãnh thuận tình,

Mấy điều nghị ước đôi bên như lời. (20)

Quan quân rày đặng thảnh thơi,

Lấp đàng hớn giận, kết người anh em.

Muôn dân nệm ấm gối êm,

Khỏi điều lưu lạc lại thêm sum vẩy.

Xưa Nam nay đã về Tây,

Lang Sa nguyên soái một tay quờn hoành.

Gồm coi thủy lục công binh,

Sửa sang địa thế, tập tành dân phong;

Bình Dương với huyện Tân Long,

Đặt làm thành phố chỗ trong chỗ ngoài. (30)

Sài Gòn Chợ Lớn chia hai,

Tên thì có khác, đất thì cũng liên.

Dưới sông tàu lửa đậu liền,

Từ đồn Giao Khẩu sắp lên Bà Nghè.

Thông lưu các nước bộn bề,

Có tàu Đông Việt, có ghe Bắc kì.

Bán buôn vật nọ hàng kia,

Lao xao thương khách xiết gì là đông.

Chiếc qua chiếc lại đầy sông,

Mù mù khói tỏa, đùng đùng máy kêu. (40)

Những tàu đồng dát sắt neo,

Càng nhìn tạn mặt càng xiêu cả hồn.

Sợ chi nghịch thủy nghịc phong,

Dầu lòng chạy ngược, dầu lòng chạy xuôi.

Dưới sông sự tích thảy rồi,

Thôi thì trót thế thể coi trên bờ.

Gia Tân nền trạm thuở xưa,

Ngày nay có dựng cột cờ gần bên.

Tư bề dây thép giăng lên,

Lưu thông các xứ báo tin truyền lời. (50)

Đàng xa ba bốn ngày trời,

Máy dây đi một khúc thời tới nơi.

Chuyện trò mấy tiếng mấy lời,

Hẳn hòi nào có vi sơ chút nào.

Cánh chim bay hãy còn lâu,

Máy nầy sức mạnh quá mau dư mười.

Nhiều nơi cơ xảo khác đời,

Gẫm điều nên lạ, gẫm tài nên hay:

Những là máy để cưa cây,

Máy xay lúa gạo, máy may áo quần. (60)

Máy đàng máy tuyết lạ chừng,

Dễ coi trước mắt, khó phân ra lời.

Từ đây biết sức thấy tài,

Nhiều tay khôn khéo, nhiều người giàu sang.

Của kho xuất phát bạc vàng,

Lập ra trại lính dinh quan thiếu gì?

Có tòa Ngươn soái lạ kì,

Đá xây làm cột sắt vây làm rào;

Năm từng lầu rộng lại cao,

Cờ treo trước cửa, quân hầu ngoài sân. (70)

Rõ ràng có chất có văn,

Biết chừng nào tốt, biết chừng nào khen?

Giá dư trăm vạn trăm ngàn,

Công phu mà sợ, bạc tiền mà kinh.

Tam tòa lập sở công binh,

Để phân tội trọng tội khinh cho người.

Thượng tòa phúc án các nơi,

Những người kêu ức, những người kêu oan.

Có nhà mi phạm cầm giam,

Ngục môn là chữ, khám đường là tên. (80)

Có nhà nuôi kẻ tật nguyền,

Thuốc thang cho uống, cơm tiền cho ăn.

Có nhà dạy học thơ văn,

Chiếu giường sẵn cấp, áo quần sẵn ban.

Có người phòng ngự loài gian,

Ngày đêm đi khắp các đàng tuần canh.

Áo đen tay có viền xanh,

Tiếng kêu Police, Giám thành là tên.

Có trường ban súng diễn binh,

Tập luyện nhiều cách, công trình nhiều năm. (90)

Có vườn nuôi thú nuôi cầm,

Mấy ngàn thảo mộc, mấy trăm phi trùng.

Có trường đấu xảo lạ lùng,

Chư ban đủ món, bá công đủ nghề.

Những đồ các nước thiếu chi?

Vật khen trọng thưởng, vật chê phát hồi.

Dập dìu kẻ tới người lui,

Bên coi thứ nọ, bên coi thứ nầy.

Biết bao nhiêu khéo nhiêu hay!

Cuộc vui kể trót tháng chầy mới thôi. (100)

Trường đua xe ngựa cũng vui,

Hơn thì có thưởng, thua lui ra về.

Xa gần đất chợ làng quê,

Cùng nhau đem ngựa muôn ngàn người đông.

Chẳng phiền hao của tốn công,

Mở đàng ngang dọc, đào sông vắn dài.

Đàng thì đã rộng lại ngay,

Trên đầu che mát có cây hai hàng.

Mỗi sông có bắc cầu ngang;

Đá xây bốn phía sắt ràng hai bên. (110)

Mỗi đàng tối có thắp đèn,

Dưới sông trên bộ sáng liền nối nhau.

Năm canh rực rỡ một màu,

Như trăng chói đất, như sao lòa trời.

Biết bao nhiêu thú chơi bời?

Những nơi hí viện, những nơi tửu lầu.

Phong lưu lắm thú phong lưu,

Ngó xe coi ngựa mặc dầu ý ai.

Thiếu chi gái sắc trai tài,

Áo quần rực rỡ hớn hài xuê xoang? (120)

Phố phường tòa dọc dãy ngang,

Có hàng đồ Bắc, có hàng đồ Nam.

Bán buôn tiền vạn bạc ngàn,

Nhộn nhàng khiên gánh lăng xăng ra vào.

Đêm thì tiệc khác lao xao,

Đứa rao ngưu nại, đứa rao hạnh trà.

Đứa thì cháo vịt cháo gà,

Cùng là công binh cùng là hoa sanh.

Những là đậu chúc liên canh,

Sa lê quả tử ngồi quanh các đàng. (130)

Đèn chong ghế sắp hai hàng,

Dễ mê con nít, dễ hoan tâm tình.

Dẫu không ví cảnh Bồng dinh,

Cũng là thứ nhứt các thành cõi Nam.

Chẳng tiên song cũng khác phàm,

Ai gầy mà dạng ai làm mà ra?

Non sông lục tỉnh nước ta,

Xưa là thế ấy, nay ra thề nầy?

Tu bồi đã lắm công dày,

Trên là Ngươn soái, dưới thì các quan. (140)

Cũng vì khéo tính khéo toan,

Hai mươi năm đã rõ ràng cuộc vui.

Gần đây trước mắt thấy rồi,

Gởi lời nói với những phương xa.

Hẳn hòi sự thật kể ra,

Dám đâu thêu dệt dám là khoe khoang.

Lời quê tiếng mẹ ngang tàng.

Giải khuây đôi chút canh tràng ngâm nga. (148)

 ———————————-   Chung  ——————————————

Các chú thích, vui lòng xem bản gốc đính kèm


Ebook Bản in Gốc 1882, định dạng pdf.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!