Câu hát Annam: Câu 951 – 1011

951 – Nhứt thương, nhị nhớ, tam sầu,

Giả như ông Lưu Bị qua cầu Khổng Miêng.

952 – Hột châu rớt xuống dĩa nghiêng,

Vui cười chúng bạn, sầu riêng một mình.

953 – Em sầu còn chỗ thở than,

Anh sầu khác thể nhang tàn đêm khuya.

954 – Trách ai ăn giấy bỏ bìa,

Làm cho bạn ngọc cách lìa đôi phang.

955 – Thấy nàng anh cũng muốn thương,

Sợ e nhứt mã lưỡng cương khó cầm.

956 – Bước vô vén sáo hỏi thầm,

Cớ sao em rơi lụy ướt dầm gối loan.

957 – Nương theo chéo áo bạn vàng,

Dầu sanh dầu tử mình nàng mà thôi.

958 – Qua than với bậu hết lời,

Đừng tham núi ngọc đổi dời non tiên.

959 – Đêm khuya trăng đã nằm nghiêng,

Vẳng nghe chó sủa, trống liền điểm tư.

960 – Công Dã Trường thường ngày xe cát,

Sóng ba đào ai xét công cho.

961 – Tiếng anh nho sĩ h5c trò,

Thấy sông thì lội không dò cạn sâu.

962 – Nực ười con bướm có râu,

Thấy hoa hăm hở chầu đầu bắt hoa.

963 – Đói lòng ăn trái khổ qua,

Nuốt vô thì đắng nhả ra bạn cười.

964 – Ví dầu tình bậu muốn thôi,

Bậu phân cho phải đôi lời bậu ra.

965 – Một tiếng em than hai hàng lụy nhỏ,

Em có mẹ già biết bỏ cho ai.

966 – Kể từ bạn với trước mai,

Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông.

967 – Em nói với anh anh như rựa chặt xuống đất, như Phật chất vào lòng,

 Hoạn nạn tương cứu, sanh tử bất ly,

Bây giờ em đặng chữ vu qui,

Em đặng nơi quyền quí, em nghĩ gì tới anh.

968 – Vài ông tơ đôi ba chầu hát,

Khẩn bà nguyệt năm bảy đêm kinh,

Xui cho đôi đứa tôi thuận một tấm tình,

Dầu ăn hột muối, nằm đình cũng ưng.

969 – Thiên sanh nhơn hà nhơn vô lộc,

Địa sanh thảo hà thảo vô căn,

Không hơn cũng kiếm cho bằng,

Có đâu thua sút bạn hòng cười chê.

970 – Nước trong xanh chảy quanh hang dế,

Tiếng anh học trò, mưu kế anh đâu.

971 – Đố ai nhảy xuống ao sâu,

Mà đo miệng cá uốn câu cho vừa.

972 – Thay thương thay! Sức mạnh chở lừa,

Ngựa xe trâu ruộng đà thừa công phu.

973 – Phụ mẫu tồn bất khả viễn du,

Tọa mật thất như thông cù,

Cách mặt em một tháng bằng ba thu,

Lòng anh mong vịnh chữ: hà chu hảo cừu.

974 – Đã đành cắt tóc đi tu,

Một ngày cửa Phật mười thu cõi trần.

975 – Thân em buôn bán tảo tần,

Lòng anh sao nỡ từ trần xuất gia.

976 – Tại mẹ cha dứt tình tơ nguyệt,

Khuyên em đừng chực tiết uổng công.

977 – Nơi thương cha mẹ biểu vong,

Nơi chẳng bằng lòng cha mẹ biểu ưng.

978 – Bần cư náo thị vô nhân đáo,

Phú tại lâm sơn hữu viễn thân,

Bấy lâu nay em không biểu, anh cũng lại gần,

Bây giờ em sa cơ thất vận, em biểu mấy lần anh cũng không vô.

979 – Muốn chồng đây để chồng cho,

Đây là thục nữ chẳng lo chi chồng.

980 – Trăm năm trăm tuổi may rủi một chồng,

Dầu ai có thêu phụng vẽ rồng mặc ai.

981 – Giả tình say dò lòng thục nữ,

Giả khách qua đàng thử dạ quí nương.

982 – Không chồng đi dọc đi ngang,

Có chồng thì cứ một đàng mà đi.

983 – Mình xanh tay đỏ nút chì,

Cơm lương với muối sống thì là may.

984 – Cùng nhau vã tiếng một ngày,

Ngãi nhân thẳm thẳm cũng tày ba thu.

985 – Tích xưa dầu để sờ sờ,

Giữ trâu đọc sách, cầm cờ chăn dê.

986 – Bấy lâu cách lựu xa lê,

Biết làm sao đặng trọn bề ái ân.

987 – Tới đây khác xã lạ làng,

Thói quê anh cũng lạ, xin nàng khá thương.

988 – Cơm Phiếu Mẫu gối Trần Đoàn,

Ngửa nghiêng song phụng, nhẹ nhàng nương luông.

989 – Chỉ kim tương cha mẹ không thương,

Dứt đạo cang thường,

Anh cam bụng chịu,

Thôi nuông áo anh ra về, em bận bịu làm chi.

990 – Dạo chơi bàn thạch thanh nhàn,

Họa may có gặp con bạn vàng thuở xưa.

991 – Bến đò xưa con bóng đương trưa,

Buông lời hỏi bạn kén lừa nữa thôi.

992 – Thang co nhiều nức khó trèo,

Đem nhau tới chốn hiểm nghèo bỏ nhau.

993 – Đèn ai leo lét trên lầu,

Hay là đèn bà Quấc Mụ tụng kinh cầu cho Mã Đăng Luông.

994 – Yếm em bốn dải lòng thòng,

Dải xanh dải đỏ, dải trắng dải vàng,

Cái sỏ của chàng một trăm ba mươi sáu đoạn,

Một đoạn bên nầy một đoạn bên kia,

Ví dầu trời đất phân chia,

Đôi ta như khóa với chìa đừng rơi.

995 – Áo vải quao lựa sào mà vắt,

Tuy xấu mặt lòng lựa mặt gởi thân.

996 – Tấm giấy vàng đề hàng chữ thọ,

Rước em về hai họ chứng minh.

997 – Mục bất kiến nhĩ anh cũng tàng văn,

Thấy em có nghĩa mấy trăng anh cũng chờ.

998 – Dốc một lòng lấy chồng hay chữ,

Để ra vào kinh sử mà nghe.

999 – Muốn cho ông cống ông nghè,

Thiếu chi nhiêu học kết bè mà chơi.

1000 – Từ khi rẽ một phan trời,

Dạ hằng khắn khắn nhớ lời minh sơn.

1001 – Trăm năm nhơn nghĩa vẹn toàn,

Tử sinh tạc dạ đá vàng nào phai.

1002 – Bao giờ sum hiệp trước mai,

Lòng nguyền kết tóc lâu dài trăm năm.

1003 – Đạo hằng tình ngỡi chí tâm,

Làm sao cho đặng ngọc cầm liền tay.

1004 – Bao giờ thuyền trở lái day,

Cờ về tay phất đẹp mày nở gan.

1005 – Một mình đã luận lại bàn,

Chạnh lòng thương nhớ bạn vàng cố tri.

1006 – Bao đành tử biệt sanh ly,

Ven trời góc biển thị phi không tường.

1007 – Ai làm cách trở sâm sương,

Ai làm rời rã oan ương dường nầy.

1008 – Buồn trông ngọn gió vòi mây,

Tương tư ai giải cho khuây buổi nào.

1009 – Đua chen thu cúc xuân đào,

Lựu phun lửa hạ mai chào gió đông.

1010 – Chữ rằng: Vắn tổ tầm tông,

Cháu con nỡ bỏ cha ông chẳng màng.

1011 – Đánh cờ nước bí khôn toan,

Dầu anh khéo lượng trăm bàn cũng thua.

——————– Chung ———————-

Viết một bình luận

error: Content is protected !!