Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Tiêu hốt triêu vân tán bích khung,
Đông Pha (1) tình tự loạn như bồng.
Chẩm hàn ngọc mã không tê nguyệt, (2)
Trướng lãnh kim tì bất cấm phong.
Lão hạc thê lương minh lộ bạch,
Sô anh trù trướng khốc hoa hồng.
Trang liêm di kiến linh tê hạp,
Nhất điểm thông tâm nhập mộng trung. (3)
Dịch nghĩa: Khóc Phạm Chung Cơ
Bão đột ngột mây sớm tan trên trời biếc,
Tình tự của Đông Pha rối như cỏ bồng.
Gối lạnh ngựa ngọc luống hí trăng,
Trướng lạnh tơ vàng không ngăn nổi gió.
Hạc già thê lương kêu móc trắng,
Chim non buồn rầu khóc hoa hồng.
Hòm nữ trang còn thấy hộp linh tê,
Lòng một điểm thông vào trong giấc mộng.
Chú thích
(1): Đông Pha: là tên hiệu của Tô Thức, người ở Mi Sơn, Mi Châu, nay thuộc Tứ Xuyên, Trung Quốc.
(2): Gối làm bằng ngọc theo hình con ngựa.
(3): Linh tê: sừng tê giác, theo thuyết xưa thì trong sừng tê giác có đường vân trắng như sợi chỉ, thông thẳng hai đầu, cảm ứng tinh nhạy. Nhân đó, người dùng để tỷ dụ về sự cảm thông giữa hai người với nhau.
Hoài Anh dịch thơ
Bão đột ngột, mây sớm tan,
Đông Pha tình tự miên man rối bời.
Gối thêu lạnh ánh tr8ang rơi,
Trướng không ngăn nổi gió ngoài trời sương.
Hạc già móc trắng thê lương,
Chim nom hoa đỏ khóc thương đau buồn.
Hộp linh tê thấy trong hòm,
Một điểm thông nhập vào cơn mơ mòng.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.