Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Hổ tiếu bình nguyên hống địa lôi,
Tùng sơn trùng tủng thúy đào thôi.
Thế phiên cổ động quần tuyền dũng,
Thanh sâu hàn cung vạn mã lai.
Ngư giáp phân phi tiều cảnh giới,
Hạc sào ẩn kiến thẩn lâu (1) đài.
Thao thiên bất nịch lăng vân khí,
Chu ấp ưng tri hữu túc tài.
Dịch nghĩa: Sóng thông
Hổ thét đồng bằng rống như sấm,
Núi thông cao chọc trời sóng biếc giục.
Thế lật động cổ các suối vọt lên,
Tiếng đậu cung lạnh như có vạn con ngựa phi nước đại tới.
Vẩy cá bắn tung, cảnh giới ông tiều,
Tổ hạc thấp thoáng thấy lần thẩn.
Nước ngập trời không dìm đắm được khí vút lên mây,
Nên biết là có chất liệu sẵn để làm mái chèo thuyền.
Chú thích
(1): Thẩn lâu: ý chỉ những hình ảnh lâu đài, thành quách thường ẩn hiện trên mặt biển. Theo khoa học ngày nay thì đó chính là hiện tượng chiết xạ ánh sáng trong tự nhiên mà thành. Nhưng thời xưa người ta cho rằng do hơi Thẩn (Thẩn là con hàu hay con ngao lớn) phun hơi mà thành.
Hoài Anh dịch thơ
Hổ gầm như sấm giữa đồng,
Thông cao vút, sóng cuộn tung dập dờn.
Thế lật động, các suối phun,
Tiếng như vạn ngựa vó chồm phi nhanh.
Vẩy cá bắn tóe chung quanh,
Tổ hạc thấp thoáng thấy hình thẩn lâu.
Khí vươn mây, nước dìm sao?
Chất liệu dùng đẽo mái chèo sẵn đây?
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.