Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Cừu Triệu nan tiêu Dự Nhượng hồn,
Triệu gia chung phá Dự kiều tồn.
Nộ phiên hùng lãng Tương thành chấn,
Khí thổ trường hồng Tấn thủy tôn.
Trụ quải đài y minh cựu kích,
Kệ tàng tuế thạch ký dư thôn.
Chí kim quốc sĩ phong do tráng,
Khích phát nhân tư ngộ ngã ân.
Dịch nghĩa: Cầu Dự Nhượng
Hồn Dự Nhượng thù Triệu khó tiêu tan,
Nhà họ Triệu rốt cuộc tan nát, cầu Dự còn.
Giận dấy sóng hùng làm chấn động thành Tương,
Khí nhả cầu vồng dài sông Tấn tôn trọng.
Trụ cầu treo áo rêu ghi khắc đòn đánh ngày trước,
Bia mộ giấu đá trải nhiều năm ghi lại dấu nuốt than.
Đến nay di phong của quốc sĩ còn hùng liệt,
Khêu gợi cho người nghĩ đến cái ơn tri ngộ đối với mình.
Hoài Anh dịch thơ
Mối thù họ Triệu khó tiêu,
Họ Triệu tan, Dự Nhượng kiều trơ trơ.
Giận làm dậy sóng cuồng xô,
Khí cầu vồng nhả đôi bờ sông run.
Trụ áo rêu nhớ trận đòn,
Bia vùi đá cũ ghi hờn nuốt than.
Di phong quốc sĩ rỡ ràng,
Nhắc ơn tri ngộ, người mang nặng lòng.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.