Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Thánh tích hiền tung lịch phỏng cầu,
Kiên dư sơ quyện tác Nghi Câu.
Tinh trần cúc giáp nghiêm phòng đạo (1),
Phong trịch du tiền báo mại thu.
Sứ lộ nhất hành thuyền hoán mã,
Khách đồ lưỡng kiến Nữ phùng Ngưu.
Xuất cương nhân dĩ thậm tình thậm,
Vô sự nga mi bạn dịch lâu.
Dịch nghĩa: Đêm mồng bảy tháng bảy ở trạm Nghi Câu
Dấu vết thánh hiền tìm kiếm khắp nơi,
Xe đi hơi mệt nhọc, dừng nghỉ trạm Nghi Câu.
Sao bày lòe ánh áo giáp vàng, nghiêm phòng trộm cướp,
Gió ném tiền quả du, báo đã tiết thu.
Trên đường sứ bộ đi, hết thuyền lại đổi sang ngựa,
Dặm khách đã hai lần thấy Chức nữ gặp Ngưu lang.
Người ra khỏi biên cương đã sa đa tình lắm,
(Mà lại thấy) khách mày ngài vô sự đứng trên lầu nhà trạm.
Chú thích
(1): Chú thích của tác giả Trịnh Hoài Đức: Thiên Thu lệnh sách Hoài Nam Tử nói: thẩm duyệt bản án để quyết định xử tử hình, ắt phải phòng bị trộm cướp.
Hoài Anh dịch thơ
Dấu thánh hiền kiếm khắp nơi,
Xe tạm dừng để nghỉ ngơi dọc đàng.
Sao dàn lóe ánh giáp vàng,
Tiền quả du gió ném quàng, báo thu.
Trên đường ngựa đổi thuyền đò,
Hai phen thấy cảnh hẹn hò Chức Ngâu.
Đa tình khách vướng từ lâu,
Mày ngài sao đứng trên lầu nhởn nhơ.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.