136 – Khai Phong phủ hành quán lập thu bệnh trung ngâm

Nguyên tác chữ Nho (*)

Phiên âm (*)

Đạo viễn gian quan nhậm trọng đài,

Tự thương sàn nhược bị phong ai.

Bôn mang dị cảm Tôn Hoằng (1) bệnh,

Hưu dưỡng đồ vọng Cấp Ảm đài. (2)

Thùy tựu bi2nhbo62ng linh dược huệ,

Mộng toàn tang tử thự chung thôi.

Thu thiên nhược mẫn cần lao khách,

Ngũ dạ lương phong tảo tống hồi. (3)

Dịch nghĩa: Ở hành quán phủ Khai Phong lập thu ngâm trong lúc bệnh

Đường xa gian nan nhận trách nhiệm nặng nề,

Tự thương yếu đuối trải đủ gió bụi.

Chạy vạy bận rộn dễ mắc bệnh của Tôn Hoằng,

Nghỉ đường bệnh luống trông đài của Cấp Ảm.

Ai ban thuốc linh nghiệm cho kẻ trôi nổi bềnh bồng,

Mộng trở về quê nhà chuông sớm giục.

Trời thu nếu thương khách vất vả gian lao,

Gió mát năm canh sớm đưa về.

Chú thích

(1): Tôn Hoằng tức Công Tôn Hoằng, làm quan lớn đời Hán Võ Đế, Trung Quốc.

(2): Chú thích của tác giả Trịnh Hoài Đức: Đài Cấp Ảm ở trước phủ lại có tên đài Ngọa Trị.

(3): Chú thích của tác giả Trịnh Hoài Đức: thời tiết lúc bấy giờ tuy lập thu nhưng khí trời còn nắng nực cho nên mắc bệnh táo nhiệt nóng nảy buồn bực.

Hoài Anh dịch thơ

Đường xa trách nhiệm nặng nề,

Tự thương yếu đuối đủ bề gian lao.

Bệnh Tôn Hoằng dễ mắc vào,

Trông lầu Cấp Ảm càng nao nao lòng.

Ai cho thuốc kẻ bềnh bồng,

Mộng về quê cũ chuông rung giục ồn.

Trời thu thương khách bôn chôn,

Thì đưa gió mát về luôn cho cùng.


(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!