Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Thiên trung linh tụ Lạc Dương (1) khai,
Hổ tiếu long ngâm chiến đấu hồi.
Qua giáp thượng tồn Chu lễ nhạc,
Huyền ca vô phục Tấn lâu đài.
Mẫu đơn giá áp Tam đô phú, (2)
Đỗ Vũ (3) đề phi cửu thổ hôi.
Phổ suất tòng kim quy hữu đạo,
Hàm quan (4) hà túc thị thôi ngôi.
Dịch nghĩa: Lạc trung
Linh khí trong cõi trời tụ ở Lạc Dương,
Trải bao cơn chiến tranh hùm rống rồng ngâm.
Giáo, áo giáp đến nay vẫn còn lễ nhạc nhà Chu,
Tiếng đàn ở lâu đài Tấn không còn nữa.
Mẫu đơn giá đắt hơn bài phú Tam đô,
Cuốc kêu bay tro chín tầng đất.
Khắp nơi đại thể từ nay quy về một đường,
Hàm quan sao đủ cậy là cao chót vót.
Chú thích
(1): Lạc Dương: ở tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Nơi đây đã là kinh đô của nhiều triều đại.
(2): Tam đô phú: ba bài phú miêu tả cảnh kinh đô thịnh vượng của Tả Tư, đời Tây Tấn, Trung Quốc.
(3): Đỗ Vũ: tên một loại chim, còn gọi là Tử Qui hay Đỗ Quyên.
(4): Hàm quan: cửa ải xứ Hàm dương.
Hoài Anh dịch thơ
Khí linh tụ cả Lạc Dương,
Trải bao chiến loạn nhiễu nhương tới giờ.
Vẫn bền lễ nhạc nhà Chu,
Tiếng đàn lầu Tấn ngày xưa không còn.
Tam đô kém giá Mẫu đơn,
Cuốc kêu Thục đế ngậm hờn không nguôi.
Khắp nơi quy một đạo thôi,
Hàm quan đâu đâu ngất trời mà khoe.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.