Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Đầu trâm ước định mãi sơn thư,
Thu thập yên hà thái cổ dư.
Đào dục thâm căn châu lũ khảm,
Tùng tu trực cán cảnh đa trừ.
Xuân thu thời biến chiêm đình thảo,
Y thực niên lai vấn dã sơ.
Viễn khách hy kỳ cao sĩ cố,
Cam tuyền phân cộng nhiệt trần khu.
Dịch nghĩa: Đường qua Tân Trịnh xin nước ở vườn cây nhà xóm núi, nhân lấy thơ để tạ ơn.
Ném cây trâm, ước định mua sách núi,
Thu thập khói ráng từ thời thái cổ còn dư lại.
Đào muốn rễ sâu, gốc nhiều lần chặt,
Tùng muốn thân đứng thẳng, cọng tỉa bớt nhiều.
Xuân thu thời biến đổi xem cỏ trong sân,
Chuyện cơm áo hàng năm trông vào rau vườn.
Khách xa mong được vị cao sĩ quan tâm,
Nước suối ngọt chia cùng uống khu trừ khí nhiệt ở cõi trần.
Hoài Anh dịch thơ
Bán trâm, định mua sách xưa,
Nhặt màu khói ráng còn lưa tới giờ.
Đào, rễ sâu, gốc luôn trừ,
Tùng, đứng thẳng, cần tỉa thưa cọng cành.
Xem cỏ sân: thời, biết rành,
Chuyện cơm áo, có rau dành để nuôi.
Khách xa được cụ quan hoài,
Tiêu tan nhiệt khí nhờ nơi cam tuyền.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.