129 – Lục nguyệt ký vọng dạ độ Trường Đài quan

Nguyên tác chữ Nho (*)

Phiên âm

Thiên đình nhập cận mệnh sơ ưng,

Chung nhật trì khu kế dạ đằng.

Đái chí tinh xa vân phụ cốc,

Tích ma sơn điếm nguyệt huyền đăng.

Tú y đãi ấp hoàng phong áo,

Ngọc tiết tiên triêm trạm lộ ngưng.

Ngưỡng kiến thái bình can vũ (1) hóa,

Vô quan Thường Đức mỹ đồng xưng. (2)

Dịch nghĩa: Rằm tháng sáu đêm đậu cửa quan Trường Đài

Khi đón nhận mệnh vào triều cận thiên đình,

Suốt ngày rong ruổi tiếp đêm trằn trọc.

Xe sứ mang vật tặng, mây bám vành xe,

Quán núi chứa mè trăng treo đèn.

Áo vóc đợi vái, phong thái nhà vua ấm áp,

Cờ ngọc tiết trước đã thấm móc trong đọng.

Ngửa trông thời thái bình đức hóa múa can vũ dưới thềm,

Không có cửa quan nên gọi chung tên đẹp Thường Đức.

Chú thích

(1): Can vũ: hai khí cụ dùng để múa nhạc. Can là lá chắn làm bằng da. Vũ là cái ngù làm bằng lông đuôi chim trĩ cắm trên một cán gỗ.

(2): Chú thích của tác giả Trịnh Hoài Đức: Nơi này không có cửa quan, nhân gọi tên là cửa quan Thường Đức. Lại có tên Vô quan, thời đó gọi là cửa quan Trường Đài.

Hoài Anh dịch thơ

Lệnh vào chầu vừa nhận xong,

Suốt ngày rong ruổi đêm ròng trở trăn.

Mây bám theo bánh xe lăn,

Chứa mè quán núi mặt trăng treo đèn.

Áo vóc chờ vái bệ tiền,

Cờ ngọc tiết đã thấm liền móc trong.

Thời thái bình thỏa trông mong,

Không quan, Thường Đức gọi chung tên lành.


(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!