Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Trương lê (1) cửu khát Lạc Trung danh,
Tống tự nga mi vật cánh vinh.
Nhất khỏa tiêu dung trường hạ nhiệt,
Kỷ hồi thư tước mỹ nhân tình.
Hương điềm tiệm nhiễm hoàn cân lý,
Tuyết bạch dao ngưng ngọc thủ kình.
Bạc hãnh bất từ mang lý khách, (2)
Thu quy tương hứa báo dao quỳnh. (3)
Dịch nghĩa: Lúc bấy giờ khí trời nắng gắt, đi qua đường núi châu Tín Dương vừa gặp cô gái bán lê, mua để giải khát cô gái cười mà tặng, nhân đọc miệng bài thơ ghi cuộc gặp gỡ
Lê Trương Công Nghệ đã mộ tiếng ở Lạn Trung từ lâu,
Lại do khách mày ngài tặng vật càng vẻ vang.
Một quả có thể tiêu tan nóng nực hè dài,
Mấy lần nghiền ngẫm mối tình của mỹ nhân.
Hương ngọt ngào dần thấm vào trong khăn lụa,
Cánh tay ngọc trắng như tuyết đọng đưa lên.
Tiếng bạc hãnh không từ khách bận rộn dọc đường,
Mùa thu về hứa sẽ đền đáp bằng ngọc quỳnh dao.
Chú thích
(1): Trương Lê: trái lê của ông Trương Công Nghệ, theo tích xưa của Trung Quốc.
(2): Bạc hãnh: bạc tình. Ý câu thơ rằng dù đang đi đường bận rộn cũng rất có thể vướng vào chuyện tình.
(3): Do câu trong bài Mộc qua, Vệ phong, Kinh Thi. Ý rằng: Người ta tặng ta mộc đào, ta đền trả bằng ngọc quỳnh, ngọc dao.
Hoài Anh dịch thơ
Lê Lạc Trung mộ danh vang,
Khách mày ngài tặng vật càng thêm vinh.
Tiêu tan nóng nực trong mình,
Mấy lần nghiền ngẫm mối tình mỹ nhân.
Hương ngọt ngào thấm lụa khăn,
Cánh tay ngọc tuyết trắng ngần trao đưa.
Tiếng bạc hãnh khách không từ,
Hẹn thu về sẽ đền bù quỳnh dao.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.