Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Thùy gia tỷ muội bộ xuân viên,
Huề thủ phong tiền đấu thục viên.
Liễu tỏa mi tiêm thanh đại vựng,
Thạch minh tâm giới bạch vân căn. (1)
Hồn tiêu Vu Hiệp tha sinh mộng,
Mệnh bạc Chiêu Dương (2) thử nhật ân.
Nguyện đắc dương chi cam lộ (3) sái,
Chu lan hạnh thác tịnh liên bồn.
Dịch nghĩa: Lại đề bức tranh dưới dương liễu hai mỹ nhân dựa vào đá
Chị em nhà ai bước trong vườn xuân,
Dang tay trước gió thi vẻ xinh đẹp.
Mày liễu nhỏ thuốc về tô quầng sáng,
Đá khắc tấm lòng rễ mây trắng.
Hồn tiêu mộng kiếp khác, khe Vu Hiệp,
Mệnh bạc cung Chiêu Dương, hôm nay được ban ân.
Nguyện được nước cam lộ cành dương rẩy,
May thác sinh vào chậu sen tịnh đế bên lan can sơn son.
Chú thích
(1): Vân căn: rễ mây, tức là đá.
(2): Chiêu Dương: cung của hoàng hậu ở.
(3): Về điển này, có hai tích.
Tích cũ: ông Phật Đồ Trừng, người nước Thiên Trúc, lấy cành dương nhúng vào nước, vẩy vào người có bệnh, tức thì bệnh khỏi.
Lại có tích Phật Bà Quan Âm lấy cành dương liễu nhúng nước cam lồ vẩy vào người chết thì họ hồi sinh, vẩy vào âm hồn thì họ đầu thai lại.
Hoài Anh dịch thơ
Chị em ai dạo vườn xuân,
Dang tay thi vẻ thanh tân dịu hiền.
Mày liễu nhỏ thuốc tô lên,
Tấm lòng đá khắc vững bền gốc mây.
Hồn tiêu mộng kiếp sau này,
Chiêu Dương mệnh bạc hôm nay ân nhờ.
Cành dương rẩy nước cam lồ,
Thác sinh tịnh đế sen tơ trong bồn.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.