Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Hoàng Hạc lâu nam Anh Vũ châu,
Tiêu sâm yên cảnh nhập thanh lưu.
Lục tần áo đái xuân miên ổ,
Hồng đậu hương dư vãn trác thu.
Ngụy Vũ tâm lao thân tự nhục,
Chính Bình (1) tài dật thế nan đầu.
Đình sa tế dữ cư nhân đạo,
Mạc cổ Ngư Dương thảo mộc sầu.
Dịch nghĩa: Bãi Anh Vũ
Bãi Anh Vũ ở phía nam lầu Hoàng Hạc,
Tiêu điều cảnh khói nhập vào dòng xanh.
Rau tần xanh, hơi ấm đến chỗ hõm trũng ngủ giấc xuân,
Đậu đỏ hương thừa tối mổ thu.
Ngụy Vũ lao tâm thân tự nhục,
Chính Bình tài vượt hơn người khó hợp với đời.
Dừng bè nói nhỏ với người dân ở đây,
Đừng đánh trống Ngư Dương khiến cho cây cỏ sầu.
Chú thích
(1): Chính Bình: tức Nễ Hành, người cuối đời Hán, Trung Quốc.
Hoài Anh dịch thơ
Bãi Anh Vũ phía nam lầu,
Tiêu sơ cảnh khói nhập vào dòng xanh.
Hõm sâu ấm giấc xuân lành,
Hương thừa đậu đỏ mổ nhanh thu chiều.
Lao tâm Ngụy Vũ nhục đeo,
Chính Bình tài lớn hợp sao với đời.
Dừng bè nói nhỏ cùng người,
Ngư Dương đừng đánh, ngậm ngùi cỏ cây.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.