Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Vũ Xương chí bãi giá công xa,
Hoàng Hạc giang lâu túng mục sơ.
Miến thủy yên hoa khai bộ trướng,
Ngạc châu văn vật tảo đình trừ.
Bồ trương phố viễn vàm quy khách,
Mai lạc hồ bình địch xuy ngư.
Cuồng tứ dục canh Thôi Hiệu (2) cú,
Thanh Liên tiên dĩ hạ hàng thư.
Dịch nghĩa: Đề lầu Hoàng Hạc
Vũ Xương đưa quà tặng xong cưỡi xe công,
Lầu Hoàng Hạc bên sông lần đầu thỏa sức nhìn.
Sông Miến hoa khói mở bức trướng trên bộ,
Châu Ngạc sản vật như mây, quét ngoài sân.
Cây bồ giương ra bến xa, khách trên thuyền về,
Mai rụng hồ phẳng ông chài thổi sáo.
Ngông cuồng muốn nối tiếp câu thơ của Thôi Hiệu,
Lý bạch trước đã hạ thư hàng.
Chú thích
(1): Hoàng Hạc lâu: một tòa lầu được dựng bên bờ Trường Giang, thuộc Vũ Xương, Trung Quốc.
(2): Thôi Hiệu (? – 754): thi sĩ đời Đường.
Hoài Anh dịch thơ
Tặng quà xong, cưởi xe công,
Lầu Hoàng Hạc thỏa mắt trông lần đầu.
Miến giang hoa khói đẹp màu,
Quét sân, sản vật Ngạc châu ùn ùn.
Cây bồ giương, khách dong buồm,
Hồ bằng, mai rụng, chài buông sáo chiều.
Thơ Thôi Hiệu muốn nối theo,
Thanh Liên trước đã biết điều chịu thua.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.