120 – Vũ Xương chu trung khẩu tặng sở kiến (1)

Nguyên tác chữ Nho (*)

Phiên âm

Hoa nghịch (2) dung phi túc liễu đê,

Tình xuyên vân thụ chuyển thê mê.

Phù bình hạnh hữu chu nhan cố,

Lưu thủy tàm vô bạch tuyết (3) đề.

Chiếu ảnh nhược lân mai cốt sấu,

Tần mi như đố nguyệt ngân đê.

Cuồng sơ không tác đông lân tiện,

Chỉ xích lâu thuyền Doanh hải (4) tề.

Dịch nghĩa: Những điều trông thấy trong thuyền ở Vũ Xương đọc miệng tặng

Thuyền lười đi đậu lại đê liễu,

Sông tạnh cây mâ chuyển sang buồm thảm mịt mù.

Thân bèo nổi may có người mặt đỏ quan tâm,

Nước chảy thẹn không có bài thơ bạch tuyết.

Soi bóng lại thương xương mai gầy,

Ngấn trăng thấp như nét mày chau vì ghen.

Chểnh mảng nhác nhớn mà được người láng giềng phía đông khen.

Lân thuyền gang tấc đã gần kề Doanh hải.

Chú thích

(1): Vũ Xương: thành cổ của Trung Quốc.

(2): Họa nghịch: Nghịch là một loài chim nước có tài bay liệng mà không sợ gió, người ta thường vẽ nó ở đầu thuyền. Do đó chữ họa nghịch được dùng chỉ chiếc thuyền.

(3): Bạch tuyết thi: Tạ Đạo Uẩn là một tài nữ đời Tấn, làm bài thô Bạch Tuyết, thiên hạ đều khen.

(4): Doanh hải: biển có Doanh châu, chỉ cõi tiên.

Hoài Anh dịch thơ

Bên đê liễu tạm ghé thuyền,

Cây mây sông tạnh bỗng nhiên mịt mờ.

Phận bèo may gặp duyên ưa,

Nước trôi, Bạch tuyết thơ chưa viết thành.

Xương mai đối bóng thương mình,

Chau mày trăng cũng ra hình hờn ghen.

Sơ cuồng được láng giềng khen,

Lâu thuyền gang tấc tiếp liền Doanh châu.


(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!