Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
I.
Hạ thủy bình hồ trướng,
Thao thao trục bắc lưu.
Phong tường xuyên lĩnh thụ,
Hoa đĩnh kỵ lô châu.
Du thảo miên phì lộ,
Du điền vãn phóng ngưu.
Thái liên hà xứ khúc,
Liêm quyển tịch dương lâu.
II.
Mê quốc lâm hùng trấn,
Phong phàm quyển tịch huy.
Giang đình hồng lạo tẩm,
Thủy quách bạch vân vi.
Bạc đĩnh nghi hàng nhạn,
Cư nhân trọng tú y.
Vô tình thùy điếu lữ,
Á á tọa ngư ky.
Dịch nghĩa: Mùa hè đi thuyền trên Sở Giang ghi lại việc
I.
Hồ phẳng nước mùa hè dâng,
Cuồn cuộn chảy về bắc.
Cột buồm gió xuyên cây núi,
Thuyền hoa cưỡi bãi lau.
Cỏ tốt cò mập ngủ,
Ruộng màu mỡ chiều thả trâu.
Khúc hát hái sen ở nơi nào,
Rèm cuốn lầu trong bóng chiều.
II.
Trấn hùng mạnh của nước Nai,
Buồm gió cuốn ánh chiều tà.
Đình sông dìm trong nước lụt,
Thành nước mây trắng vây.
Đậu thuyền nên theo hàng nhạn,
Người dân ở đây trọng áo vóc.
Vô tình ông buông câu,
Câm lặng ngồi trên hòn đá câu.
Hoài Anh dịch thơ
I.
Mùa hè hồ nước dậy,
Chảy về bắc rất mau.
Cột buồm xuyên cây núi,
Thuyền hoa cưỡi bãi lau.
Cỏ tốt cò mập ngủ,
Ruộng màu nhàn thả trâu.
Khúc hái sen đâu đó,
Rèm cuốn chiều ngả lầu.
II.
Trấn hùng mạnh của nước Nai,
Cánh buồm gió lướt chiều phai ánh ngày.
Đình sông nước lụt dâng đầy,
Bức thành nước mây trắng vây bốn bề.
Đậu thuyền theo lối nhạn đi,
Người dân quen thói trọng vì áo thêu.
Vô tình bác buông câu,
Ngồi trên hòn đá giờ lâu câm lời.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.