110 – Thạch Cổ sơn nạp lương

Nguyên tác chữ Nho (*)

Phiên âm

Bất vũ Hành Dương ngũ nguyệt trung,

Duy chu Thạch Cổ tán viêm hống.

Chưng Tương đình hợp liên khâm thủy,

Tùng trúc nhân huề mãn tụ phong.

Tính thực y hi qua Hán tướng, (1)

Cao ngâm tưởng tượng Ngọa Đường ông. (2)

Liễn ngoan mạc tủng mang nhàn tiếu,

Hiền triết do lai ngộ bất đồng.

Dịch nghĩa: Núi Thạch Cổ hóng mát

Hành Dương tháng năm không mưa,

Buộc thuyền ở núi Thạch Cổ giải cơn nồng nực.

Chưng Tương, đình hợp hai dòng nước như hai vạt áo liền,

Người mang trong tay áo đầy gió tùng trúc.

Mưu thôn tính, tướng Hán từng qua đây,

Cao ngâm tưởng tượng đến ông Nguyên Kết đời Đường.

Núi đứng cao đến chọc trời, đem chuyện đó cười chơi,

Hiền triết vốn cảnh ngộ không giống nhau.

Chú thích

(1): Chú thích của tác giả Trịnh Hoài Đức: Gia Cát Vũ hầu từng dừng quân ở đây. Thư viện Nguyên Kết đời Đường đọc sách ở phía Nam núi.

(2): Ngọa đường ông tức Nguyên Kết là một nhà thơ đời Đường.

Hoài Anh dịch thơ

Hành Dương tháng năm không mưa,

Buộc thuyền Thạch Cổ nghỉ trưa nực nồng.

Chưng Tương đình hợp hai dòng,

Người hai tay áo trúc tùng gió xao.

Nuốt Ngô, tướng Hán gian lao,

Cao ngâm tưởng tượng Đường trào Nguyên ông.

Núi đừng cao tới bầu không,

Người hiền cảnh ngộ bất đồng, lạ chi.


(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!