Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Động Đình (1) xuân tận thủy thao thao,
Ô thước nam phi vạn lại hào.
Thần nữ mộng hồn Vu hiệp vũ,
Tôn thần tâm huyết Sở giang đào.
Nghinh nhân liễu diệc khoa yêu tế,
Đặc địa sơn như đấu kế cao.
Triếp thị đa tình hành lộ khách,
Sầu thinh đồng tẩu tụng Ly Tao (2).
Dịch nghĩa: Sở Trung
Động Đình xuân hết nước cuồn cuộn,
Quạ, chim khách bay về nam, không trung ồn ào.
Mộng hồn Thần nữ mây Vu hiệp,
Tâm huyết của Khuất Nguyên gửi theo sóng sông Sở.
Đón người liễu cũng khoe lưng nhỏ,
Đặc biệt đất này núi như búi tóc quấn cao.
Thường là khách đi đường đa tình,
Sầu nghe trẻ già đọc bài Ly Tao.
Chú thích
(1): Động Đình: tên một hồ nổi tiếng ở đất Trung Quốc xưa.
(2): Ly Tao là tập thơ nổi tiếng của Khuất Nguyên.
Hoài Anh dịch thơ
Động Đình xuân cạn, nước trôi,
Quạ về Nam tiếng réo sôi xa gần.
Mây Vu hiệp mộng nữ thần,
Khuất Nguyên tâm huyết trải lần sóng sông.
Đón người liễu khoa lưng ong,
Núi như búi tóc từng vòng quấn cao.
Tính đa tình biết làm sao?
Nghe già trẻ đọc Ly Tao những sầu.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.