Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Lục long giá nhật há Ly San,
Nam sứ chinh phàm xả bích loan.
Hòe tấn binh là điêu đẩu (1) hưởng,
Trúc bài ngư đái lộ từ hoàn.
Địa đồ tế khải kinh đồ viễn,
Thi tịch tần thôi giác hoạn nhàn.
Xuyên tạc nhân gia cơ tạm tức, (2)
Liệu minh ngư hí thủy sàn sàn.
Dịch nghĩa: Đêm đậu ở đầm Chim Cốc
Sáu con rồng chở mặt trời xuống núi Ly Sơn,
Buồm thuyền sứ nước Nam bỏ ở vụng biếc.
Trạm canh phòng dưới gốc hòe, linh đàn, tiếng điêu đẩu vang,
Bè tre nhà chài chở, cò và chim cốc về.
Địa đồ xem kỹ, giựt mình vì đường xa,
Tính ghiền thơ giục luôn, thấy việc làm quan nhàn.
Cơ mưu đục đẽo của người ta nay tạm dứt,
Đuốc lửa sáng cá đùa giỡn, nước cuồn cuộn.
Chú thích
(1): Điêu đẩu: Điêu là cái xẻng (xưa gọi là cái tiu); Đẩu là cái đấu dùng trong quân đội để đong gạo nhưng cũng dùng để gõ làm hiệu lệnh. Điêu và đầu đều dùng như kẻng và mõ trong quân đội.
(2): Chú thích của tác giả Trịnh Hoài Đức: Nơi này gần núi người đục khoét đá dọc sông, người đánh cá ai làm nghề nấy.
Hoài Anh dịch thơ
Mặt trời xuống núi Ly San,
Vụng xanh thuyền sứ nước Nam bỏ buồm.
Trạm canh lính đóng mõ dồn,
Cốc cò về tổ, bè luồn dọc ngang.
Xem địa đồ bỗng kinh hoàng,
Ma thơ giục, thấy việc quan nhàn nhiều.
Cơ mưu đục đẽo tạm tiêu,
Đuốc bừng cá giỡn nước reo cuộn dòng.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.