Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Trí thân tòng hứa quốc,
Đáo xứ tiện thành gia.
Cô ảnh thiên bồi nguyệt,
Hàn sầu tuyết tống hoa.
Tửu binh (1) hành ấp tốn,
Thi lệnh tức huyên hoa.
Tục lự câu tiêu tận,
Nhân sinh lạc hữu nhai.
Dịch nghĩa: Hứng thơ đến nơi quán dịch
Đã dốc lòng đem thân giúp nước,
Khắp chốn đều là nhà.
Bóng lẻ trời cho trăng đến bầu bạn,
Sầu vì lạnh tuyết đưa hoa đến.
Binh rượu hành lễ vái nhường,
Thơ ra lệnh im bặt tiếng ồn ào.
Nỗi lo tục lụy đều tiêu hết,
Đời người vui có bến bờ.
Chú thích
(1): Tửu binh: rượu làm binh.
Thơ cổ có câu:
Thế lộ nan hành kim tác mã,
Sầu thành dị phá tửu vi binh.
(Đường đời khó đi lấy tiền thay ngựa,
Thành sầu dễ phá, rượu làm binh).
Hoài Anh dịch thơ
Đã đem thân giúp quốc gia,
Khắp nơi đâu chẳng là nhà, ngại chi?
Bóng đơn trăng đến bạn bè,
Tuyết tặng hoa lúc lạnh tê trên giường.
Binh rượu hành lễ vái nhường,
Thơ ra lệnh bặt tiếng đương ồn ào.
Nỗi lo tục lụy đều tiêu,
Đời người vui phải biết đâu là bờ.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.