Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Hào hoa Dương Việt áp Tô Mân,
Chỉ sổ Phan gia tỉ Quý Luân. (1)
Môn tụy trâm anh tam phẩm hoạn,
Viên sâm tùng trúc tứ thời xuân.
Thanh phong hương khuyến đăng lâu tửu,
Bác vật kỳ la mãn tịch trân.
Viễn khách lưu liên canh ký túy,
Y hy Bồng đảo (2) tọa trung thân.
Dịch nghĩa: Lưu đề hoa viên của Thập tam hàng chủ Phan Đồng Văn
Hào hoa Quảng Đông hơn cả Giang Tô, Phúc Kiến,
Chỉ kể nhà họ Phan đã có sánh được với Quý Luân.
Cửa trâm anh tụ tập quan đến tam phẩm,
Vườn tùng cúc tươi tốt xuân cả bốn mùa.
Gió mát, hương khuyên mời rượu lên lầu,
Của ngon vật lạ la liệt trên bàn tiệc.
Khách xa nán lâu uống tiếp nên đã say,
Thấy mình chẳng khác nào ngồi nơi Bồng đảo.
Chú thích
(1): Quý Luân: tên tự của Thạch Sùng, một người giàu có đời nhà Tấn, Trung Quốc xưa.
(2): Bồng đảo: đảo Bồng Lai, tương truyền là nơi tiên ở.
Hoài Anh dịch thơ
Hào hoa Việt đè Tô Mân,
Họ Phan đã sánh Quý Luân thuở nào.
Cửu trâm anh tam phẩm cao,
Vườn xuê tùng trúc mùa nào cũng xuân.
Hương khuyên mời rượu ân cần,
Tiệc bày quý vật kỳ trân đủ mùi.
Lưu liên khách đã say rồi,
Ngỡ nơi Bồng đảo mình ngồi thung dung.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.