Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Trấn Biên chu thổ hải chi tưu,
Phá hiểu sử vân mục tử trù.
Xích huyện (2) hôn mai lê đãi tận,
Hắc lô (3) vu uế tịch tương chu.
Vũ nhiêu sơn giản thần khai yển,
Thảo dụ xuân đê vãn phóng ngưu.
Vạn khoảnh yên hà thu thập túc,
Qui lai sơ nguyệt hạ kiên đầu.
Dịch nghĩa: Đất đỏ bừa trong mây
Trấn Biên có bãi đất son, liền ngay ven bể,
Trong đám mây mờ mịt, mới tảng sáng đã có từng hàng người bừa.
Gần đô thị, những đám um tùm cuốc cày hầu hết,
Đất đen xấu biết bao rậm rạp, khai phá gần xong.
Mưa nhiều, khe núi nước đầy, sáng đi tháo đập,
Xuân tới bờ đê cỏ tốt, chiều đến chăn trâu.
Sương khói một màu muôn khoảng rộng, san sửa vừa xong,
Bừa vác trên vai, đi về nhà dưới bóng trăng mới mọc.
Chú thích
(1): Chu thổ: đất đỏ ở Long Điền (nay thuộc Bà Rịa – Vũng Tàu).
(2): Xích huyện là cách gọi huyện nào được kiêm lý chung với kinh thành. Huyện gián tiếp thì là kỳ huyện.
(3): Hắc lô: đất đen rắn, thuộc loại đất ruộng xấu.
Hoài Anh dịch thơ
Đất đỏ Trấn Biên góc biển Đông,
Người bừa tảng sáng kéo ra đồng.
Um tùm bao đám cày vừa hết,
Rậm rạp đất đen vỡ sắp xong.
Khu núi nước đầy đi tháo đập,
Đê xuân cỏ tốt thả trâu rong.
Khói sương muôn khoảnh tay san sửa,
Bừa vác vai về trăng sáng chong.
Nguyễn Văn Sâm dịch thơ
Nơi Trấn Biên có miền đất đỏ,
Liền biển xanh một dải mênh mông.
Trời hôm vừa lóe rạng động,
Từng đàn lũ lượt ra công dựng làng.
Gần đô thị cây hoang phá rạp,
Đất đen sì vỡ nát dưới tay.
Nhờ mưa khe núi nước đầy,
Sáng đi tháo đập nuôi cây tốt vườn.
Mùa xuân tới bờ đê cỏ mượt,
Chiều trẻ con mặc sức chăn trâu.
Muôn vườn sương khói một màu,
Người người ra sức cùng nhau cấy cày.
Trăng non vừa gác mái tây,
Nông phu vác cuốc khoan thai đi về.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.